Anh Phú và chị Điệp trong vườn nhà (Ảnh: Ngọc Thủy)
Vậy đó, hầu hết thời gian của những năm chiến tranh anh chị sống trong rừng; những cánh rừng bị rải chất độc hóa học. Làm sao anh chị biết nó sẽ tước mất quyền làm cha làm mẹ của mình? Làm sao anh chị biết nó sẽ để lại vô số bệnh về sau? Mà có biết thì cũng không tránh được. Bây giờ cả hai vợ chồng chị đều bị bệnh tiểu đường, huyết áp cao, viêm khớp … và đều là nạn nhân chất độc da cam.
Anh chị yêu nhau từ năm 1969, khi cùng công tác ở Tổng đài Quân khu. Tình yêu thời chiến tranh chỉ để trong lòng, mãi đến hòa bình mới dám công khai và được hai đơn vị đứng ra làm tuyên bố - vì ba má chị đều đã hy sinh. Má chị làm công tác binh vận và quân báo từ 1945. Năm 1966 bà hy sinh trên đường đi công tác. Ba chị theo ông Sáu Danh đi diệt ác trừ gian từ trước 1945. Lúc chị mới nhập ngũ ba chị là Chủ nhiệm Hậu cần Tỉnh đội Mỹ Tho; sau đó ông về trên làm Phó Chủ nhiệm Hậu cần Quân khu 8. Năm 1971 ông hy sinh trong một chuyến công tác.
Khi cưới nhau, anh Phú mới 27 tuổi, chị Diệp 21, cái tuổi đẹp nhất của đời người. Hai họ chúc mừng, đồng đội ngưỡng mộ; tưởng rồi họ sẽ có con cháu đầy đàn, ai ngờ đợi hoài mà không có “tin vui”. Má chồng chị nóng ruột xin về cho chị một đứa bé gái mới 23 ngày tuổi. Chị bắt đầu học làm mẹ, học chăm sóc, nuôi dạy con… Nhưng có con mà cũng như không, người con ấy lấy chồng, rồi đi biệt không về.
Sau 1975 chị Diệp về công tác ở Ban Hành chánh, thuộc Phòng Tham mưu Tỉnh đội Tiền Giang. Năm 1988 chị nghỉ hưu với chức vụ Trưởng ban, quân hàm Đại úy. Lúc này anh Phú cũng đã về tỉnh làm Chủ nhiệm Thông tin, đến năm 1990 anh nghỉ hưu với quân hàm thiếu tá.
Năm 2010 phường 2 thành lập Hội Nạn nhân chất độc da cam. Lúc này chị Diệp đang là Chi hội trưởng Cựu chiến binh được vận động kiêm chức Chủ tịch Hội Da cam của phường cho đến nay. Làm việc không có lương, không có phụ cấp; kinh phí hoạt động thì mỗi năm được vài triệu là mừng; nhưng không vì vậy mà chị lơ là, thiếu trách nhiệm. Sáng nào chị cũng tới phường như bao nhiêu cán bộ, công chức khác; hôm nào có việc phải nghỉ thì chị xin phép đàng hoàng. Cấp ủy, chính quyền phường cũng rất ưu ái với Hội Da cam, trừ chuyện không có phụ cấp ra, còn mọi chuyện khác chị đều được đối xử công bằng như bao cán bộ đoàn thể khác. Được vậy thì vui nhưng cũng cực; nay chỗ này mời sơ tổng kết, mai chỗ kia mời hội nghị… nhiều khi chị đi suốt ngày.
Phường 2 có 82 nạn nhân, trong đó có 64 nạn nhân là dân thường, 18 nạn nhân là người tham gia kháng chiến. Tuy tất cả đều được hưởng trợ cấp theo quy định, nhưng đâu phải đã hết khó khăn, nhất là đối với 28 hộ nạn nhân nghèo và cận nghèo. Mỗi khi đến thăm các gia đình nạn nhân, thăm những người đồng đội cũ, thấy họ bồng trên tay những đứa con không bao giờ biết đứng, biết đi; những đứa con với tay chân cong queo, nụ cười ngờ nghệch … chị thấy mình còn may mắn hơn nhiều. Nỗi đau của anh chị có thấm vào đâu so với các gia đình ấy? Suốt 6 năm qua, nguồn động viên để chị vượt qua những suy nghĩ tầm thường, tiếp tục cống hiến sức lực cho công tác từ thiện xã hội là hoài niệm của những năm tháng chiến tranh; là lý tưởng của những đồng đội đã ngã xuống và tình thương chị dành cho những số phận không may.
Những lúc có dịp trò chuyện với tôi, chị thường kể về hoàn cảnh của những nạn nhân. Chị nói, mình sống như vầy, tuy không giàu sang nhưng cũng may mắn lắm rồi; chứ có người còn sống chui rúc, nhà không ra nhà, khổ sở không sao kể xiết. Nói đâu xa, gia đình em Trần Thanh Sang, 11 tuổi, ở khu phố 4 phường này đây; cả nhà che mấy tấm tol trên khu đất nghĩa địa để ở. Ba người trong gia đình ngủ dưới nền xi măng; mưa thì ẩm ướt, nắng thì nóng như cái lò. Cha cháu Sang bị bệnh tâm thần nhẹ, tháng mưa còn có thể đi làm mướn, chứ tháng nắng thì chú ấy chạy rong ngoài đường. Mẹ cháu Sang gác cửa nhà vệ sinh, mỗi tháng hơn triệu tiền công, mà ngày nào cũng đi từ 6 giờ chiều, đến 6 giờ sáng hôm sau mới về. Hội Da cam phường muốn vận động cất cho họ cái nhà tình thương, nhưng lại không có đất.
Chị tặc lưỡi thở dài. Ngừng một chút chị lại kể về gia cảnh anh Huỳnh Anh Tuấn, ở khu phố 5. Anh Tuấn có hai con, cả hai đều là nạn nhân chất độc da cam. Đứa con gái lớn tên Huỳnh Kim Ngân, đã 23 tuổi mà không đi đứng được, nay thêm bệnh tiểu đường. Đứa con trai nhỏ là Huỳnh Kim Ngọc, 21 tuổi, bị vẹo cột sống, teo chân … suốt ngày ngồi trên xe lăn. Cả hai đứa đều không tự phục vụ được; chuyện tắm rửa, tiêu tiểu… đều do cha mẹ làm giúp. Vợ anh Tuấn bị bệnh tiểu đường nặng, ở nhà trông con; anh cũng bị bệnh tim và cao huyết áp, nhưng phải đi làm mướn để nuôi gia đình. Rồi trường hợp của bé Nguyễn Kim Long, ở khu phố 3. Cháu 13 tuổi mà chỉ nặng có 7 ký, không đi đứng được; cha mẹ sống bằng nghề bán vé số…
Chị không kể nữa, có cái gì đó vừa rơi vào mắt chị. Tôi lặng lẽ đi bên chị, lặng lẽ sẻ chia nỗi lo của người cán bộ từ thiện - xã hội. Chị đổi giọng làm vui, nói tiếp: Lần nào vận động được quà chị cũng ưu tiên cho mấy gia đình này. Chị còn đề nghị Mặt trận và Hội Chữ thập đỏ của phường hỗ trợ. Đi xin người ta cũng tự ái lắm chứ, nhưng có phải xin cho mình đâu? Nghĩ đến cảnh khổ của những nạn nhân chị không cầm lòng được, phải ráng bấm bụng “xin”; xin từ bạn bè, thân hữu, đến người chưa quen. Nhờ vậy mà từ đầu năm đến giờ chị đã vận động được 68 suất quà, trị giá cũng khoảng 16 triệu đồng; Hội Da cam tỉnh cho thêm 13 suất, khoảng 5 - 6 triệu nữa, nên các hộ nạn nhân nghèo đều được quà, có hộ được tặng 2 lần. Những buổi lễ phát quà dù của cấp nào, nhưng nếu có cho nạn nhân phường 2 thì bao giờ chị cũng có mặt. Chị phải trực tiếp đưa nạn nhân của mình đến nơi, nhìn họ nhận quà thì mới yên tâm. Gần đây chị được bầu làm Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh phường, thêm một chức trách, thêm một nỗi lo, chị đi nhiều hơn. Có lúc thấy anh Phú ngồi giặt quần áo, tôi đùa: “Anh Phú giỏi thiệt nha! Mà nay có phải là ngày 8 tháng 3 không ta?”. Anh Phú phân bua: “Đồ dơ cả thau hổng lẽ không giặt. Bả không làm quan làm tướng gì, mà ngày nào cũng đi từ sáng tới tối”.
Nói thì nói vậy thôi, chứ anh Phú cũng như chị, thương những đồng đội không may của mình. Tại có hai vợ chồng hủ hỉ, mà chị đi tối ngày nên anh buồn. Chị nói như để an ủi anh: Tuy mình cũng là nạn nhân, cũng sống nhờ thuốc, nhưng so với những nạn nhân khác mình còn khỏe hơn; cuộc sống cũng ổn định, không phải lo chuyện miếng cơm manh áo; vậy thì sao mình không làm điều gì đó để góp phần xoa dịu nỗi đau cho những mảnh đời bất hạnh hơn? Có lẽ suy nghĩ đó đã giúp chị vượt qua bao khó khăn, tự nguyện gắn bó với những mảnh đời bất hạnh.
Ý kiến bạn đọc