Học Lạc - Nhà thơ trào phúng đất Nam bộ

Đăng lúc: Thứ ba - 17/01/2012 10:02

Nếu nhắc đến những nhà thơ trào phúng trứ danh phương Bắc như Tú Xương, Yên Đỗ… thì Học Lạc chính là nhà thơ trào phúng cùng thời, nổi tiếng ở vùng đất phương Nam. Dù tác phẩm của Học Lạc để lại không nhiều, nhưng tên tuổi của ông luôn gắn liền với những dòng thơ châm biếm bọn cường hào, đả kích hội tề, lên án những kẻ làm tay sai cho giặc… Thơ của Học Lạc thường gắn bó mật thiết với tình hình xã hội trong thời kỳ đầu thế kỷ XIX, thời kỳ đất nước đang bị nạn ngoại xâm, trước sự bất lực và suy đốn của triều đình nhà Nguyễn. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Mỹ Tho đều có đường phố mang tên Học Lạc.

I. CON ĐƯỜNG KHOA BẢNG THẤT BẠI

Học Lạc tên thật là Nguyễn Văn Lạc, bút hiệu Sầm Giang. Ông sinh năm Nhâm Dần (1842), tại làng Mỹ Chánh - tỉnh Mỹ Tho, sau là tỉnh Định Tường (nay thuộc xã Tân Mỹ Chánh - thành phố Mỹ Tho - tỉnh Tiền Giang). Dù sinh ra trong một gia đình nghèo nhưng do học giỏi nên Nguyễn Văn Lạc được tuyển vào ngạch học sinh. Ngạch học sinh (như một hình thức học bổng ngày nay) của triều đình nhà Nguyễn đặt ra để khuyến khích học tập. Những ai trúng tuyển đều được vào học ở trường quan Đốc học. Chính điều đó, bạn bè thường gọi Nguyễn Văn Lạc là học sinh Lạc. Dần dần về sau, mọi người bỏ chữ “sinh”,  gọi ông là Học Lạc và tên tuổi ấy được lưu truyền mãi về sau.

Học Lạc có tài làm thơ Nôm rất giỏi, có tài xuất khẩu thành thơ. Ông là bạn học cùng với Nguyễn Hữu Huân (Thủ Khoa Huân), Bùi Hữu Nghĩa, Phan Hiển Đạo…

Theo như lời truyền miệng của những người trong làng thuộc vùng đất Thuộc Nhiêu, Học Lạc là một người nhỏ nhắn, trắng trẻo. Đặc biệt giọng nói của ông lúc nào cũng sang sảng như chuông đổ. Ngay thẳng và khí phách, đó là đặc điểm nổi bật nhất ở tính tình Học Lạc.  Về sau cũng vì tính cách này, Học Lạc luôn rước họa vào thân. Bọn cường hào thời ấy ít khi để những người tài trí như ông yên thân an phận. Học Lạc luôn gây cho họ sự khó chịu bằng tài năng và trí tuệ của mình. Bởi Học Lạc không những là người có học vấn uyên thâm, ông còn giỏi cả về y thuật, địa lý và cả thuật chiêm tinh xem tướng. Tính cách cứng cỏi, tấm lòng trong sạch của ông thể hiện trong văn thơ, được người đời lưu truyền mãi về sau.

Học Lạc sinh ra trong thời kỳ đất nước vừa thoát khỏi các cuộc nội chiến kéo dài suốt 25 năm giữa nghĩa quân Tây Sơn và nhà Nguyễn. Công việc triều chính luôn phải chỉnh đốn cho đến đời Minh Mạng mới vào kỷ cương. Song chẳng bao lâu, là các công thần khai quốc bị bạc đãi, do sự nhũng nhiễu của đám nịnh thần nên lòng dân không phục triều đình. Các cựu thần của nhà Lê, các sĩ phu Bắc Hà đều muốn khôi phục lại nhà Lê. Cho nên, giặc giã trong nước nổi lên khắp nơi. Không những vậy, phía Tây, phía Nam đất nước ta thời ấy luôn bị quân Xiêm, quân Lào quấy rối. Ở Nam bộ, thuộc hạ của Tả quân Lê Văn Duyệt, Tổng trấn Gia Định Lê Văn Khôi, nổi lên đánh chiếm thành trì, bắt và giết các quan triều đình cử vào thay nhiệm kỳ. Ngoài Bắc, dân chúng nổi loạn ở các vùng Nam Định, Ninh Bình, Tuyên Quang, Thái Nguyên… Dù ở miền Nam không xảy ra biến loạn như ở miền Trung, miền Bắc nhưng đời sống người dân vẫn không được an toàn. Năm 1861, ba tỉnh miền Đông là Biên Hòa (Đồng Nai), Gia Định (TP HCM), Định Tường (Tiền Giang) đã rơi vào tay Pháp. Năm 1863, triều đình nhà Nguyễn cử Phan Thanh Giản sang Pháp xin chuộc lại ba tỉnh này nhưng không thành. Đến năm 1867, quân Pháp lại chiếm thêm ba tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên. Chính vì điều này, Phan Thanh Giản đã uống rượu độc tự vẫn. Quân Pháp đã đánh tan các đạo quân của triều đình nhà Nguyễn, nhưng chúng không thể dập tắt ngọn lửa căm thù và ý chí chống giặc ngoại xâm của nhân dân miền Nam dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Trương Công Định ở Gò Công; Thủ khoa Huân ở Mỹ Tho; Nguyễn Trung Trực ở Long An; Đỗ Trình Thoại, Võ Duy Dương, Hương Quản Hớn, Lê Công Kiều ở vùng Đồng Tháp Mười… Học Lạc chính là sĩ phu sống trong hoàn cảnh rối ren ấy. Thuở thiếu thời, ông đã được hưởng chế độ giáo dục của triều đình nhà Nguyễn, một chế độ khuyến khích người tài tham gia thi cử. Thế nhưng, Học Lạc thi mãi không đỗ. Trước tình hình như vậy, Học Lạc đành gác lại chuyện thi cử. Các nho sĩ cùng thời với ông mỗi người hành động một cách, người thì đứng lên chống giặc Pháp như Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị… Người thì đầu hàng, cam tâm làm nô lệ như Tôn Thọ Tường… Số khác lại lẩn tránh tranh đấu, chọn lối sống ẩn dật như Nhiêu Tâm. Đặc biệt trong đó có nhà thơ Học Lạc, ông đã chọn cuộc sống giống như Nhiêu Tâm nhưng khí phách hơn. 

Khi giặc Pháp chiếm Định Tường, Học Lạc rời quê ở làng Mỹ Chánh về chợ Thuộc Nhiêu (thuộc Tiền Giang ngày nay) để dạy học và làm thuốc. Ông tưởng như vậy đã tìm được nơi trú ẩn bình yên. Nào ngờ, Học Lạc còn bất mãn hơn trước đó. Những cảnh hà hiếp, những bất công do bọn cường hào trong làng, trong xã gây ra luôn làm ông bất bình.

Chuyện kể rằng, ngày xưa trong dân gian Nam bộ thường có tục cúng xôi. Hàng năm, đến ngày kỳ yên, các chức sắc trong làng mỗi người phải mang đến đình làng một mâm xôi để tế thần. Tập tục này ngày nay một số vùng nông thôn ở Nam bộ vẫn còn giữ. Học Lạc từng nằm trong ngạch học sinh của triều đình nhà Nguyễn trước đó. Cho nên đối với làng, ông cũng là một chức sắc. Vì vậy, ông phải tuân theo lệ làng. Năm đó, Học Lạc cũng đội mâm xôi đến đình làng cúng như mọi năm. Nhưng mâm xôi của Học Lạc đem ra đình cúng thần linh chỉ ghi hai chữ Thằng Lạc thay vì phải ghi chức sắc và họ tên. Khổ nỗi, trong làng lại có nhiều người vai trên chức trước, họ đã lấy cớ đó quở trách Học Lạc. Họ ghép tội Học Lạc xấc xược, dám giễu cợt thánh thần, khinh khi hương chức. Vì vậy xong lễ kỳ yên, làng bắt Học Lạc phải xin lỗi các hương chức. Lúc ra về, ông liền làm bài thơ theo thể vần trắc và ngâm ngay bài thơ ấy cho một vài người trong làng nghe:

               Tạ hương Đảng

               Vành mâm xôi đề tên “Thằng Lạc”

               Nghĩ mình ti tiện không đài các

               Văn chương chẳng phải bợm mèo quào

               Danh lợi không ra cái cóc rác,

               Bởi thế bơ thờ thẹn núi sông

               Dám đâu lúc láo ngạo cô bác,

               Việc này dẫu có thấu lòng chăng,

               Trong có ông thần, ngoài cặp hạc.

Bài thơ này ngày nay vẫn còn lưu truyền trong dân gian. Nhắc đến Học Lạc, người đời thường nhắc cả bài thơ này và ý nghĩa của nó. Nhưng trước sự quở phạt của các hương chức, Học Lạc nghĩ mình chẳng có lỗi gì cả. Bởi, ông luôn xếp mình vào hàng dân dã, trên mâm xôi cúng thần không xưng danh tánh như vậy thì xử thế nào? Thần linh nào lại quở trách người ngay thẳng, trung thực. Có chăng chỉ là những kẻ nịnh thần thích dựa vào thế giới linh thiêng để sinh sự và ức hiếp ông.

Dù không đỗ đạt, nhưng với danh vị “sinh viên” do triều đình nhà Nguyễn phong tặng, một chức sắc ngang hàng với xã trưởng ở miền Nam và lý trưởng miền Bắc thời ấy. Nếu là người khác, Học Lạc có thể dựa địa vị này để tìm một vị thế trong làng. Nhưng Học Lạc lại luôn thể hiện tính cách của một nhà Nho khí khái, trực tính. Vì vậy, các hương chức trong làng rất oán ghét ông, nhưng không biết làm thế nào để hãm hại. Thời ấy, cùng làng với Học Lạc có ông Nhiêu Dự cũng là một nhà Nho. Nhưng so với Học Lạc, ông này kém hơn rất nhiều về tài và đức. Ông ta cố giành giật được chiếc ghế hương chức. Học Lạc và hương chức Nhiêu Dự rất ghét nhau, luôn chống đối nhau. Một hôm, người nhà của một bệnh nhân đến rước Học Lạc về bắt mạch (khám bệnh). Trên đường đi, Học Lạc phải dừng lại can ngăn đám trẻ đang xúm lại đánh một người Trung Hoa có tuổi để giật tiền. Bất thình lình, các hương chức trong làng xuất hiện, họ bắt tất cả mọi người vào nhà việc đóng trăng. Học Lạc bị bắt đóng trăng giữa đình làng. Được dịp, bọn hương chức có một trận cười hả hê. Học Lạc lại dửng dưng, ung dung đến độ bọn quan lại ấy phải bất ngờ. Đang lúc chịu phạt, Học Lạc nhìn sang người ngồi bên cạnh (người Trung Hoa) mỉm cười. Người này cũng chịu hình phạt giống Học Lạc, nhưng khuôn mặt lại rất buồn bã và lo âu. Học Lạc liền “xuất khẩu” ngay bài thơ Ngồi trăng  và ngâm tặng cho người xa lạ kia như để xoa dịu mọi ưu phiền:

               Ngồi trăng(1)

               Hóa ở An Nam, lứ khách trú(2)

               Trăng trói lăng xăng nhau một lũ

               Ngoài mặt ngỡ ngàng bạn Bắc, Nam

               Trong tai,(3) cắc cớ xui đoàn tụ.

               Bợm làng chẳng vị sĩ năm kinh(4)

               Ông Bổn không thương người bảy phủ.(5)

               Phạt tạ xong rồi trở lại nhà,

               Hóa thời hốt thuốc, lứ bông vụ(6)

Trải qua chiến tranh, tư liệu viết về ông bị thất lạc, người đời sau không biết nhiều về cuộc đời riêng của nhà thơ Học Lạc... Một mặt thời ấy do thiếu phương tiện phổ biến, một mặt đời con cháu ông không chú trọng gìn giữ. Nhưng người đời vẫn truyền tụng mãi tính nết và sự tảo tần về người vợ tài sắc của Học Lạc, đó là nữ thi sĩ Bảy Khánh. Bà không những đảm đương lo trong lo ngoài cuộc sống cho Học Lạc trong những ngày rơi vào hoàn cảnh sống dở chết dở mà còn là niềm an ủi và nguồn hạnh phúc lớn nhất của ông. Đối với ông, bà Bảy Khánh chính là người luôn chia sẻ mọi niềm vui và nỗi buồn trong cuộc đời của Học Lạc. Một đời trọn vẹn cho sự nghiệp thi phú, trong đó phải kể đến tình yêu của Học Lạc dành cho vợ. Khi Học Lạc từ giã cõi đời, nữ sĩ Bảy Khánh có làm một bài thơ khóc chồng.

               Chiếc bách lỡ VỜI

               Đùng đùng sóng gió khéo nương hơi

               Chiếc bách lênh đênh mới lỡ vời

               Lố xố hoa theo khoan lại thúc

               Lạo xạo gấm về nhặt rồi lơi

               Mảnh buồm lững thững trôi trên nước

               Bánh nguyệt chơi vơi đứng giữa trời

               Chèo hạ so le ngơi mái nhịp

               Thuyền tình thong thả, bể buông khơi

II. NHỮNG VẦN THƠ TRÀO PHÚNG

Học Lạc không thành công về khoa bảng, nhưng phải thừa nhận ông vang bóng một thời về văn chương thi phú. Xét về mặt thi phú, thơ của Học Lạc lại không mang tính chiến đấu như thơ của các nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị… Nếu Nguyễn Đình Chiểu cổ động tinh thần chiến đấu và khích lệ lòng yêu nước của nhân dân Nam bộ, Phan Văn Trị lại cương quyết vạch trần những kẻ theo giặc sát hại dân tộc, bán rẻ non sông cho giặc Pháp thì Học Lạc lại chú ý và vạch ra những cái gọi là rởm đời, những thói hư tật xấu của bọn cường hào thôn xóm làng xã.

Dù không được ghi chép và lưu giữ, nhưng những bài thơ mang tính châm biếm, đả kích bao giờ cũng được người đời truyền miệng. Sự truyền miệng ấy, nhiều khi sai lạc đôi chút, gây trái ý trái nghĩa với tác giả, nhưng vẫn phản ánh được một phần đời sống xã hội lúc ấy. Phải thừa nhận rằng, những vần thơ của ông đã góp phần đấu tranh cho cuộc sống cơ cực của người dân nông thôn thời ấy. Chính điều đó, thơ của Học Lạc và tên tuổi của ông vẫn sống mãi với thời gian, đặc biệt là trong đời sống nông thôn.

Rất nhiều nhà thơ đã khai thác hình ảnh con trâu bên luống cày, trên đồng ruộng trong quá trình lao động. Nhưng với Học Lạc lại khác, hình ảnh con trâu xuất hiện trong thơ ông lại mang một ý nghĩa khác, chính là bọn cường hào, hội tề.   Trước hết,

               Con trâu

               Mài sừng cho lắm cũng là trâu

               Ngẫm lại mà xem thật lớn đầu

               Trong bụng lam nham ba lá sách

               Ngoài cằm lém đém một chòm râu

               Mắc mưu đốt đít tơi bời chạy,(7)

               Làm lễ bôi chuông nhớn nhác sầu,(8)

               Nghé ngọ già đời quen nghé ngọ,

               Năm giây đàn gẩy biết chi đâu.(9)

Đây là một bài thơ trào phúng khá độc đáo và sâu xa. Học Lạc đã mượn hình ảnh con trâu để nói về bọn cường hào hương chức. Bởi thơ trào phúng là một trong những thể loại văn học đã góp phần rất mạnh mẽ trong việc chống đối và đả kích bọn cường quyền áp bức.

Con trâu rồi lại đến Con tôm, Học Lạc lại ám chỉ những nhân vật quan làng, quan xã ở một khía cạnh khác, cường điệu nhưng xác thực.

Con tôm

Chẳng phải vương công, chẳng phải hầu,

Học đòi đái kiếm lại mang râu.

Khoe khoang mắt đỏ trong dòng bích,

Chẳng biết mình va cứt lộn đầu.

Bài thơ này xuất hiện hàng thế kỷ nhưng người đọc lại thấy rất mới ở phong cách, cấu tứ và ngôn từ. Dù bài thơ dè bỉu và chê bai bọn hội tề thời phong kiến nhưng thế hệ người đọc ngày nay vẫn hình dung và nhìn thấy đâu đó những kẻ khoác lác, kém tài năng thường hay hợm mình trong thơ của Học Lạc. Con tôm mắt đỏ bơi lội giữa dòng sông mênh mông xanh biếc, đôi càng và bộ râu oai phong nhưng không biết trên đầu mình chứa toàn chất bã. Có thể nói, câu thơ cuối là thể hiện đặc sắc nhất. Vì tác giả đã phơi bày “trí tuệ” của những kẻ hám danh hám tài, dựa quyền ỷ thế hà hiếp dân lành. Những người bất tài nhưng lại giữ quyền cao chức trọng.

Một lần từ Thuộc Nhiêu - Tiền Giang lên Sài Gòn, Học Lạc tình cờ gặp đám tang của Đốc phủ sứ Huỳnh Công Tấn. Ông dừng lại quan sát và chợt nhớ đến anh hùng Trương Định. Bởi Đốc phủ sứ Huỳnh Công Tấn trước đó chính là thuộc hạ của Trương Định, nhưng sau phản bội Trương Định và dẫn đường cho quân Pháp đánh lại Trương Định ở Gò Công vào năm 1864. Cho nên nhìn đám tang của Huỳnh Công Tấn có đông đảo quan Tây và tay sai đưa tiễn, Học Lạc đã xuất khẩu thành thơ:

Chó chết trôi

Sống thời bắt thỏ, thỏ kêu rêu

Thác thả dòng sông xác nổi phều

Vằn vện sắc còn phơi lẩn dẩn

Thúi tha danh hỡi, nổi lều bều

Tới lui bịn rịn bầy tôm tép,

Đưa đón lao xao, lũ quạ diều.

               Một trận gió dồi cùng sóng dập,

               Tan tành xương thịt biết bao nhiêu!

Đọc xong bài thơ châm biếm, người đọc phải công nhận rằng, Học Lạc quả là một tài năng thiên phú. Nhìn cảnh đời trái ngang, thương tâm, Học Lạc có thể cho ra đời ngay bài thơ đặc sắc như vậy. Về nội dung lẫn kết cấu, bài thơ đã khắc họa khá đậm nét về thân thế và số phận của một kẻ biến mình thành tên phản phúc, tay sai giặc. Cho dù sống có “vinh quang” mấy, nhưng một khi đã biến mình thành tội ác, khi thác đi vẫn là tội ác. Tiếng nhơ lúc sống làm sao, lúc chết cũng mãi mãi mang theo tiếng nhơ ấy.

Không chỉ dùng lời lẽ châm chọc để đả kích bọn bất tài, khi dời nhà từ làng Mỹ Chánh (nay thuộc xã Tân Mỹ Chánh - thành phố Mỹ Tho) về làng Thuộc Nhiêu (nay thuộc huyện Cai Lậy - tỉnh Tiền Giang), Học Lạc luôn cay đắng trước hoàn cảnh của xã hội. Bởi ông nhìn đâu cũng thấy bóng quân thù, giặc ngoại xâm. Giặc giã ở đây còn là nạn áp bức bóc lột, hình ảnh của bọn cường hào.

               Tức cảnh ban chiều

               Ngó ra ngoài ngõ gió hiu hiu,

               Xem thấy cảnh trời, trời đã chiều

               Hăm hở trẻ con múa lại hát

               Đứa thì làm tướng, đứa làm yêu.

Những câu thơ đầu chỉ là cảnh trời chiều, nhưng đến đoạn cuối thì ý đồ của tác giả đã khác. Ông đã mượn hình ảnh của trẻ con để ám chỉ và mỉa mai những kẻ lợi dụng thời cuộc ra tay áp bức dân lành trong thời kỳ giặc Pháp xâm chiếm nước ta.

Trong khi đó, những người anh hùng gan dạ khác lại hiên ngang, dũng cảm đứng lên chống giặc ngoại xâm.

               Thuộc Nhiêu tức cảnh

               Đất linh bồi đắp cuộc Ba Giồng,

               Cảnh Thuộc Nhiêu nhiều khách ngợp trông

               Đường cũ, ngựa biêu chơn ngán bước,

               Rạch cùng cá lội mến quên sông.

               Trướng văn lắm kẻ thêu rồng cọp(10)

               Miễu võ nhiều tay trí bá tòng(11)

               Cứng cáp thú quê vui tục cũ,

               Thềm dâu ruộng mía dễ cho không?

Bài thơ này ra đời trong lúc Học Lạc sống ở Thuộc Nhiêu dạy học và làm thuốc. Bài thơ còn ca ngợi tinh thần yêu nước của Nguyễn Hữu Huân. Vì thời điểm Học Lạc ẩn mình ở chốn thôn quê, sống cuộc đời lặng thầm cũng là lúc Nguyễn Hữu Huân trỗi dậy đánh thực dân Pháp. Bài thơ ý nói những người có học gặp lúc quốc biến, cả văn lẫn võ song toàn như Nguyễn Hữu Huân đã xông vào cuộc. Ngoài anh hùng Nguyễn Hữu Huân, Học Lạc còn ca ngợi nhiều địa danh lúc ấy như chợ Thuộc Nhiêu, một nơi có rất nhiều chí sĩ yêu nước và tài ba.

Qua những bài thơ của Học Lạc, người đọc luôn tìm thấy một nỗi đau đáu của một người bất lực trước thời cuộc.  Ông đã đau, nỗi đau trước cảnh nước mất nhà tan, nỗi đau trước cuộc sống lầm than của những người dân lương thiện. Nỗi đau ấy luôn đeo đẳng ông suốt cuộc đời. Hậu thế ngày sau ôn lại những trang sử bằng thơ của ông. Những trang sử khắc họa bối cảnh xã hội một thời đầy gian khổ, áp bức và bóc lột. Những trang sử ấy như vũ khí chiến đấu của Học Lạc.

Huỳnh Mẫn Chi

1. Bị bắt đóng gông

2.  “Hóa” và “lứ” có nghĩa là tôi và anh (tiếng Triều Châu - Trung Quốc)

3. Tai nạn

4. “Sĩ năm kinh” có nghĩa là người học trò giỏi hoặc người thầy dạy học.

5. “Bảy phủ” có nghĩa là bảy ban Hoa kiều ở Nam bộ thời ấy: Quảng Đông, Triều Châu, Huệ Châu, Hải Nam, Phước Kiến, Tuyền Châu, Phước Châu.

6. “Bông vụ” có nghĩa là hình phạt đánh của thời đó.

7. Điền Đan là một vị tướng nước Tề đã dùng dầu tẩm vào đuôi trâu đốt, rồi đuổi trâu chạy sang phía địch.

8. Tục xưa thường lấy huyết trâu để bôi vào chuông cho khỏi nứt.

9. Tục ngữ Việt Nam có câu “Đàn gảy tai trâu”.­

10. Trên trướng văn có thêu rồng cọp, ý nói người có chí, thao lược và võ nghệ.

11. Bá tò­ng là cây bá và cây tùng, ý nói người trượng phu lúc nào cũng ngay thẳng và giữ vững lập trường.

 

Huỳnh Mẫn Chi
Chia sẻ: Google Bookmarks Yahoo Bookmarks Đăng lên ZingMe Đăng lên Linkhay Đăng lên TagVn Bookmarks lêb baibu
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Ý kiến bạn đọc

Mã an toàn:   Mã chống spamThay mới     

 

Thăm dò ý kiến

Đánh giá của bạn về phiên bản mới này?

Tuyệt vời

Tốt

Trung bình

Bình thường

Rất tệ

Bộ đếm

  • Đang truy cập: 407
  • Khách viếng thăm: 401
  • Máy chủ tìm kiếm: 6
  • Hôm nay: 88212
  • Tháng hiện tại: 1837112
  • Tổng lượt truy cập: 48211239