(Sau chuyến đi thuyết trình về nhạc Việt Nam tại Hoa Kỳ và châu Úc)
Người xưa thường nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Đối với tôi mỗi lần đi thuyết trình về nhạc Việt Nam, trong nước hay nước ngoài, tôi có dịp học thêm rất nhiều. Tôi thích nhất là phần trả lời những câu hỏi của thính giả.
Một ngày cuối tháng 05/2006, tôi “tháp tùng” cùng đạo diễn Trần Lương đến nhà của nhạc sĩ Văn Lưu để xem anh thực hiện phim tài liệu về nhạc sĩ Văn Lưu. Nhà của nhạc sĩ Văn Lưu nằm giữa khu vườn yên tĩnh thuộc xã Đạo Thạnh, thành phố Mỹ Tho. Những năm tháng cuối đời, nhạc sĩ Văn Lưu bị “khiếm thính” nên những lần gặp ông, tôi trò chuyện với ông bằng cách “bút đàm”. Lần này cũng vậy, cuộc trò chuyện diễn ra bằng những dòng chữ ngắn gọn trên giấy. Cuộc “trò chuyện” thật khó khăn và hầu như thiếu hẳn sự giao hòa giữa tâm hồn hai người.
Giữa chuỗi ngày nắng vàng chang chang, nóng nảy, trời bỗng chùng xuống, thả mây mù giăng giăng. Đám cỏ bên vệ đường se sắt, ngậm sương, bóng tóc ai qua vờn nhẹ trong gió, “Em có để chút gì trên dấu cỏ / mà hương thơm bay suốt bốn mùa” (Trịnh Bửu Hoài). Đã cuối đông rồi thì phải, lòng ta bỗng rạo rực, bềnh bồng như muốn mơ về một cõi xanh tươi, mơn mởn sức sinh sôi nào đó giữa đất trời, ở đó có đôi nhân tình mê đắm dắt nhau đi giữa mênh mang xanh thắm…
Đầu thập kỷ 40, nữ danh ca, “huyền thoại” của đất Hải Phòng, Hoàng Oanh đến thăm Văn Cao một lần duy nhất, khi đó Văn Cao còn đang ở Bến Ngự, Hải Phòng. Lần viếng thăm đầu tiên đó được ông nhớ suốt đời.
"Cho đến chết mới hết sáng tác cho đời…”. Nhạc sĩ Hoàng Việt đã viết như vậy trên một tấm hình của anh gởi về cho bạn bè ở Hà Nội năm 1960, trong thời gian anh đang học ở Nhạc viện Xôphia Bungari. Không chỉ riêng tôi, mà nói chung hầu hết những người thân và đồng nghiệp của anh đều hiểu rằng: Câu nói trên đối với Hoàng Việt có nghĩa là “Cho đến chết anh mới hết đem hết tài năng, trí tuệ và tâm hồn của mình hiến dâng cho dân tộc, cho thời đại”.
Chỉ với 24 hội viên, hoạt động của Chi hội Âm nhạc Tiền Giang thời gian qua tuy chưa thật sôi nổi nhưng lại khá ổn định, đi vào chiều sâu và có nhiều tác phẩm đóng góp cho hoạt động văn hóa văn nghệ của địa phương.
Mừng xuân Tân Mão, Đài Truyền hình TFS vừa ra mắt khán giả bốn tập phim thuộc dạng “sử nhạc” mà đài truyền hình cùng ê kíp làm phim đã dành nhiều tâm huyết, sức lực để dàn dựng những thước phim đầy ắp hình ảnh của quê hương thời khói lửa cùng sự ra đời của các bài hát đã trở thành bất tử. Cảnh quan sinh động cùng lời hát chan chứa ân tình, lời tâm sự thâm trầm của tác giả kể lại cảm xúc của mình trong những phút giây sáng tạo nhạc phẩm, phim khiến người xem đôi lúc phải rưng rưng nước mắt.
"Điểm trung bình của thí sinh Ngô Văn Khoa là 19,90!", MC vừa dứt, cả khán phòng như vỡ òa bởi tiếng vỗ tay reo hò đồng tình của khán giả trong đêm chung kết xếp hạng "Tiếng hát truyền hình tỉnh Tiền Giang lần V- 2011, giải Hoàng Việt". Ngoài giải nhất, anh còn được tặng thêm giải phụ "Thí sinh thể hiện ca khúc của Hoàng Việt hay nhất".
Âm nhạc là một thế giới biến ảo. Cùng là dãy nốt nhạc trên khung kẻ nhưng khi tấu lên, mỗi người sẽ bắt lấy được chìa khóa thanh âm khác nhau để mở ra tâm cảnh của chính mình. Cùng là một bản nhạc nhưng hai nhạc sĩ ở hai thế hệ, hai đất nước, hai nền văn hóa khác nhau đã cho ra đời những dòng lời xao xuyến, theo cách cảm của mỗi người. Nếu như “Le Géant De Papier” của Jean Lacques Lafon là lời tình da diết ngợi ca vẻ đẹp tình yêu của người tình thì khi được nhạc sĩ Lữ Liên viết lại lời Việt, “Lạc mất mùa xuân” trở thành nốt trầm dài bâng khuâng, nuối tiếc cho cuộc tình xa.
Mùa thu, mùa vàng, mùa của ngày xưa. Thu thường gợi trong ta cảm giác man mác buồn khi chợt nhận ra những nhớ nhung tưởng chừng ngủ yên, bỗng trỗi dậy khi bất chợt ngắm chiếc lá vàng rơi mỏng manh tiếp đất. “Vàng rơi từng cánh tương tư” (“Tương tư hoàng diệp lạc”/ Ký Viễn - Lý Bạch), “vì tương tư mà lá vàng đã rơi từng cánh, hay chính mỗi chiếc lá vàng đã mang mối tương tư của ta trải đầy trong gió…”.
Hồi nhỏ, mưa chỉ đơn giản là tiếng cười nắc nẻ tóe nước bên hàng hiên mái ngói, hay tiếng hò reo theo con thuyền giấy gấp vội trôi theo dòng nước trước ngõ nhà. Lớn lên một chút, mưa thành những suy tư vội vàng trên cành lá trĩu nước, xanh mát miên man. Rồi không biết tự lúc nào hóa thành cái xao lòng vương theo tà áo tinh khôi phất phơ bay giữa chiều mưa bụi trên con đường đầy lá me rơi. Và bây giờ, thấp thoáng trong mưa là đôi mắt buồn vời vợi mang tên "em" của một thời kỷ niệm…
Hàn Mặc Tử đã có những câu như thế này: “Trong làn nắng ửng khói mơ tan/Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng/Sột soạt gió trêu tà áo biếc/Trên giàn thiên lý bóng xuân sang…”. Xuân đã chớm về theo xanh tươi cành lá, trong mơ màng khói tỏa cùng chút nắng hồng ửng lên mái nhà tranh. Chỉ với vài câu chữ, một bức tranh xuân tuyệt đẹp, vừa rực rỡ, vừa dịu nhẹ đã mang đến cho người đọc thoáng mơ màng, bâng khuâng. Đó là tài của Hàn thi sĩ vậy!
Văn Cao là trời cho…” - Trong lời tựa quyển “Văn Cao cuối cùng và còn lại”, Nguyễn Thụy Kha đã viết như vậy. Văn Cao sinh ra là để hiến dâng cho nghệ thuật, chìm đắm vào nghệ thuật, đau khổ chua cay vì nghệ thuật trong nỗi thăng trầm của loạn ly, chia cắt. Biển cả quê hương đã hun đúc cho Văn Cao một tâm hồn rộng lớn, mênh mông, luôn chan chứa những khát vọng về cái mới, cái đẹp thoát tục nhưng vẫn hiển hiện và lẩn khuất nơi trần thế.
Với khoảng 10 ca khúc phổ thơ mà có đến hơn 5 sáng tác đoạt giải từ địa phương, khu vực đến TW, nhạc sĩ Lê Ngân được xem là người có duyên với với các ca khúc phổ thơ. Tiêu biểu là: Giải C của UB toàn quốc các Hội VHNT Việt Nam năm 1995 (tác phẩm Chiều biển - phổ thơ Hữu Thỉnh), giải nhì, giải ba cuộc thi sáng tác ca khúc ĐBSCL năm 1997, 2002, 2007 (tác phẩm Nhớ Hà Tiên - thơ Lê Hải, Ký ức mùa thu - thơ Lê Thị Ninh) và gần đây nhất là ca khúc Bất chợt Cà Mau - phổ thơ Văn Thoại Nhiên (giải nhì cuộc thi sáng tác ca khúc ĐBSCL năm 2008).
“Nhạn trắng Gò Công” Phương Dung sau 14 năm băng nắng mưa tìm đến với những mảnh đời thiếu may mắn ở Việt Nam, nay đã quyết định cất tiếng hát rồi giã từ sự nghiệp trên chính quê hương mình.
"Tôi viết lên đây với tất cả chân thành của lòng tôi trao anh, Ngày nào đã quen nhau vì chung hướng đời mình trót trao nhau nụ cười. Và tình yêu đó tôi đem ép trong tim, Dù bụi thời gian có làm mờ đi kỷ niệm...”. Tình khúc thể điệu slow boléro Không bao giờ quên anh được nhạc sĩ Hoàng Trang sáng tác năm 1964, dù đã gần nửa thế kỷ trôi qua, nhưng đến nay bài hát này vẫn được công chúng yêu nhạc trữ tình đón nhận nồng nhiệt, đặc biệt Hoài Linh và Cẩm Ly đã thể hiện khá ấn tượng trong live show Cẩm Ly - 15 năm ca hát.
Đắm chìm trong đau khổ của tạo diệt kiếp người, cuống phổi của nhân quần bỗng bật lên, ngân lên những thanh âm tha thiết, đó chính là chất liệu đầu tiên của âm nhạc. Rồi những thanh âm đó được sắp xếp theo cung bậc bổng trầm tạo thành giai điệu, mượn những nhịp vỗ, nhịp khoan của tiết tấu dệt thành chương khúc(1), để trở thành một cấu trúc thật hài hòa, chặt chẽ truyền đến người nghe những luồng cảm xúc mang đậm dấu ấn bản thể của người nghệ sĩ đã ra tay sắp đặt… Có những tác phẩm một khi đã được ngân lên bởi đôi dây thanh âm, bỗng như chạm đến nỗi niềm sâu kín nhất…
Nhạc: Lê Hoàng
Thơ: Nguyễn Huỳnh Anh
Mênh mông là đồng nước nổi, xuôi dầm, xuôi dầm em lướt đồng sen. Đưa anh công đồn đêm vắng, lung linh những ánh sao trời...
Một điệu valse nhẹ nhàng, êm ái thật thích hợp khi trời đất đang bẽn lẽn khoác lên mình chiếc áo rực rỡ của mùa Xuân. Cách đây 31 năm, trong căn gác cũ kĩ phố Yết Kiêu, nhạc sĩ Văn Cao lướt những ngón tay khô gầy trên những phím dương cầm vàng ố màu thời gian để cho ra đời tuyệt phẩm "Mùa xuân đầu tiên". Cái cách mà "ông hoàng" Văn Cao cảm nhận mùa xuân thanh bình đầu tiên của đất nước có vẻ trầm lắng, không phải ông không vui, rất vui là đằng khác, song ông lại tận hưởng cảm giác đó bằng tâm hồn nghệ sĩ riêng của mình.
Nhân kỷ niệm ngày giỗ của nhạc sĩ Văn Lưu (2-1-2007 – 2-1-2009)
Cách đây đã cả chục năm, đang ở Mỹ Tho, một tối tình cờ hai vợ chồng nhạc sĩ Lư Nhất Vũ - Lê Giang rủ tôi đến dự đêm nhạc dành cho sáng tác của nhạc sĩ Văn Lưu. Bước ra sân khấu là hai, ba tốp ca nam và nữ của Sở Văn hóa vang lên: