MỐI QUAN HỆ TƯƠNG TÁC TRONG SÁNG TẠO VÀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

Đăng lúc: Thứ ba - 04/06/2019 20:10
1. Từ cái nhìn lý thuyết
Sáng tạo và tiếp nhận văn học luôn là vấn đề bản chất, then chốt của Khoa nghiên cứu văn học. Và thực tế, các nhà lý luận văn học truyền thống và hiện đại đã quan tâm nghiên cứu mối quan hệ này từ nhiều cấp độ lý luận với nhiều quan niệm khác nhau. Có sáng tạo văn học là có tiếp nhận văn học, dĩ nhiên là sáng tạo phải đi trước một bước để tạo thành văn bản. Sau đó, văn bản được chuyển đến người đọc, được người đọc tiếp nhận, bình giá thì nó mới trở thành tác phẩm. Cứ như vậy, tác phẩm văn học liên tục được làm đầy những giá trị chỉnh thể của chúng từ nhiều tầm đón nhận và tầm đón đợi của nhiều thế hệ người đọc, đặc biệt là người đọc đồng sáng tạo cao cấp - nhà lý luận phê bình văn học chuyên nghiệp. Có nghĩa là người đọc đồng sáng tạo cao cấp, từ nhiều góc nhìn, nhiều phương pháp tiếp cận khác nhau và từ bản chất tự trị vốn có của tác phẩm, họ có thể cung cấp nhiều ý nghĩa và giá trị mới khác nhau cho tác phẩm. Những ý nghĩa và giá trị mới ấy, quả thật trong khi sáng tác, tác giả chưa nghĩ đến hoặc chưa tin rằng, chúng lại được người đọc phát hiện thú vị như vậy. Chính vì thực tế như trên nên Trương Đăng Dung gọi “tác phẩm văn học là một cấu trúc ngôn từ động” hay “tác phẩm văn học như là quá trình”.
MỐI QUAN HỆ TƯƠNG TÁC TRONG  SÁNG TẠO VÀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

MỐI QUAN HỆ TƯƠNG TÁC TRONG SÁNG TẠO VÀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC HIỆN NAY Ở NƯỚC TA

Nói như vậy, không phải lúc nào người đọc cũng có thể mãi làm đầy những giá trị mới cho tác phẩm. Nó chỉ đúng và có giá trị trong giới hạn cho phép mà tác phẩm gợi mở, vẫy gọi. Điều đó có nghĩa là những phát hiện chủ quan, võ đoán ngoài văn bản hay rất xa với nghĩa gốc của văn bản mà người tiếp nhận gán cho sẽ không được thừa nhận. Từ mối quan hệ bản chất như trên của quá trình sáng tạo và thưởng thức văn học đã làm xuất hiện nhiều quan niệm khác nhau trong lịch sử tiếp nhận văn học. Quan niệm truyền thống đề cao vai trò của chủ thể sáng tạo, trao cho họ một khả năng và phạm vi rất rộng trong việc làm chủ tác phẩm, tạo nghĩa cho tác phẩm. Đến các nhà mỹ học tiếp nhận hiện đại, họ lại chuyển vai trò trên cho người đọc, xem người đọc là nhân tố quan trọng trong quá trình tạo nghĩa  cho tác phẩm. Và khi ấy, tác giả xem như đã hết vai trò trọng yếu của mình. “Cái chết của tác giả” hay là “độ không của lối viết” chính là cách nói để chỉ sự chuyển vị từ tác giả sang độc giả. Và quan niệm này được nhiều nhà mỹ học và lý luận văn học phương Tây đồng tình. Nhưng qua thực tiễn của quá trình sáng tạo hiện nay, đặc biệt là với chủ nghĩa hậu hiện đại, thì những định vị trên có sự lung lay. Và có nhiều ý kiến cho rằng với sự tìm tòi, thể nghiệm liên tục của văn học hậu hiện đại, thì người đọc không kịp hoặc không thể nhận ra những giá trị bản chất của tác phẩm. Chính vì thế, nên chăng, phải điều chỉnh lại mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận văn học. Và phải trao cho tác giả cái quyền định đoạt giá trị tác phẩm của mình ít nhất là ngang, nếu không muốn nói là cao hơn độc giả. Xem ra, ý kiến này trong tình hình văn học thế giới hiện nay, có thể điều hòa được hai quan niệm nói trên. Có nghĩa là tác giả và độc giả đều có vai trò cộng hưởng quan trọng của mình trong quá trình hoạt động văn học mà ở đây, tác phẩm văn học là đối tượng trung tâm của quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học.

Như vậy, mọi hoạt động văn học từ tác giả, tác phẩm, độc giả đến phong trào, khuynh hướng văn học, phương pháp sáng tác…, cuối cùng đều phải tạo ra hệ giá trị, hệ thi pháp mới mẻ, độc đáo cho cả một giai đoạn văn học, được mọi người cho là hợp quy luật và đón nhận nồng nhiệt thì khi ấy mới được xem là có giá trị và sớm muộn gì cũng sẽ tạo ra một thời đại văn học mới, tiếp nối đưa tiến trình lịch sử văn học của một dân tộc hướng về phía trước. Mối quan hệ tương tác trong sáng tạo và tiếp nhận văn học, nếu được ý thức và nhận thức như vậy, chắc chắn rằng đời sống văn học của một dân tộc sẽ diễn ra một cách bản chất, trọng tâm và hợp quy luật, tạo ra những sáng tạo đích thực, tránh được những ngộ nhận và ảo tưởng vô tăm tích, làm lãng phí thời gian và công sức.

2. Đến thực tiễn sáng tạo và tiếp nhận văn học hiện nay ở nước ta

Từ cái nhìn lý thuyết khái lược như trên, ở bài viết ngắn này, chúng tôi mạo muội suy nghĩ về thực tiễn và giới hạn của mối quan hệ giữa sáng tạo và tiếp nhận văn học ở nước ta.

Quả là có những quan niệm trái chiều nhau về cách đánh giá và tiếp nhận văn học trong những năm vừa qua. Xuất phát của tình hình trên, theo tôi, trước hết là do sự thay đổi nhanh chóng và đa dạng của quá trình sáng tạo văn học. Nhiều tác phẩm của các tác giả - cả trẻ và cao niên - đã có cách thể hiện mới lạ và phong phú, khác xa với cách thể hiện truyền thống và họ tự gọi đó là văn học đổi mới hay văn học theo xu hướng hiện đại, hậu hiện đại… Lấy mốc từ năm 2000 trở lại nay, trên văn đàn nước ta đã có những chuyển biến đáng phấn khởi xuất phát từ khát vọng cao đẹp của các nhà văn chân chính là muốn đưa nền văn học nước ta tiến về phía trước, hội nhập với văn học thế giới. Và thực tế là đã xuất hiện những tác phẩm có giá trị, được nhận những giải thưởng lớn của Hội nhà văn Việt Nam, được mọi người đánh giá cao. Nhưng nhìn rộng ra cả phong trào thì số tác phẩm như thế hãy còn  chưa tương xứng với yêu cầu của độc giả và thời đại. Đặc biệt là vẫn chưa có nhiều tác phẩm  thật sự nổi đình nổi đám và neo được sâu đậm trong lòng độc giả. Trái lại, ở các thế hệ cầm bút trẻ có sự phân hóa rất sâu sắc trong quan niệm và sáng tạo văn chương. Và đặc biệt là những tác phẩm của họ chưa tạo ra được một thời đại văn học mới như họ từng nghĩ và lạc quan, chưa kể, có người tự ngộ nhận. Vì sao? Đó là câu hỏi mà nhiều người quan tâm nhưng không dễ giải đáp một cách bản chất và có tính thuyết phục, nếu không hiểu bản chất của quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học.

Trước khi đưa ra nhận định riêng của mình về thực trạng trên, tôi xin nêu thực tế sáng tác của nước ta trong những năm vừa qua, chủ yếu là mốc từ đầu thế kỷ XXI trở lại đây (vì từ 1975 đến 2000, văn học diễn ra có định hướng, ổn định và phù hợp với yêu cầu của công chúng độc giả, có nhiều tác phẩm tiêu biểu, xuất sắc). Đó là hiện tượng có nhiều nhóm, nhiều người tự tuyên bố về khuynh hướng sáng tác của mình. Trong thơ, có nhóm Ngựa trời, nhóm Mở miệng, nhóm Tân hình thức, nhóm Dự báo phi thời tiết, nhóm @ này, @ nọ; trong văn xuôi, có những cách tân về chủ đề, đề tài, quan niệm nghệ thuật về con người, về ứng dụng cách thể hiện phân tâm học, về chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hiện sinh, về văn học tính dục… Và trong từng nhóm, từng cá nhân đều có cách riêng của mình trong xây dựng  tác phẩm. Đứng về phương diện in ấn và công bố, cũng có nhiều cách, nhiều hình thức. Nào là xuất bản thành sách qua những nhà xuất bản cá nhân, nào là xuất bản qua mạng, nào là tờ rơi, nào là diễn đọc trên các diễn đàn… Nghĩa là có sự phân hóa lớn trong đời sống văn chương theo định hướng của từng cá nhân và của từng nhóm. Dĩ nhiên là trong tình trạng chung đó, vẫn có  những tác phẩm tiêu biểu, có giá trị mà tác giả của chúng không hề tuyên bố theo khuynh hướng này, khuynh hướng nọ. Họ viết với lòng tin sâu sắc vào cuộc sống và con người, vào sự hoàn thiện và sáng suốt đạo đức, sáng suốt nhân cách của mỗi cá thể hiện sinh. Nghĩa là chủ nghĩa nhân văn trong tác phẩm của họ vẫn sáng ngời với những tìm tòi, thể nghiệm mới mẻ về mặt hình thức và nội dung. Và chủ yếu là những tác phẩm ấy, đa số, có sự thống nhất trong đánh giá và tiếp nhận của công chúng bạn đọc, kể cả những người đọc cao cấp - nhà phê bình chuyên nghiệp.

Về phía người đọc, chúng tôi nhận thấy rằng ngày nay, mọi người đều có mặt bằng văn hóa cao và khả năng tiếp nhận văn học của họ cũng đa dạng, phong phú và đầy sáng tạo. Đó là nhân tố cần thiết và thuận lợi cho quá trình phát huy và phát triển của nền văn học dân tộc, kích thích chủ thể sáng tạo liên tục tìm tòi, đổi mới. Vậy tại sao vẫn còn tình trạng nhiễu tiếp nhận trong những tác phẩm cụ thể? Tìm hiểu bản chất của vấn đề trên sẽ phần nào giải thích được những băn khoăn của nhiều người.

Theo tôi, trước hết là ở sự nhận thức của từng chủ thể sáng tạo. Nhà văn bất kỳ ở thời đại nào cũng đều sống trong một từ trường đời sống và văn hóa cụ thể. Họ không thể thoát khỏi sự quy định có tính xã hội - văn hóa ấy. Vậy, những tác phẩm của họ - dù sáng tác theo khuynh hướng nào, kiểu tư duy nào cũng phải được chấp nhận, miễn là tác phẩm ấy phải hay, phải mang chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, vì sự sống và khát vọng cao đẹp của con người, vì giá trị chân - thiện - mỹ của từng thời đại. Hơn nữa, văn học là loại hình nghệ thuật đặc thù, nó phản ánh cuộc sống bằng hình tượng thông qua chất liệu ngôn từ cũng rất đặc thù. Cho nên, nó có thể miêu tả cuộc sống như nó vốn tồn tại, đang tồn tại hoặc như nó sẽ tồn tại, phải tồn tại. Khả năng đón đầu, dự báo của văn học nhiều lúc đi trước thời đại cả hàng vài, ba chục năm, có khi hàng nửa thế kỷ… là chuyện thường thấy trong văn học của nhân loại từ trước đến nay.

Vấn đề là, làm sao để tạo ra cho được một thời đại mới trong văn học, tạo ra được cuộc cách mạng trong văn chương? Điều ấy, các văn nghệ sĩ phải thường trực suy nghĩ và động não tìm tòi, thể nghiệm. Tìm tòi, thể nghiệm không chỉ cho riêng mình - dù lúc đầu có thế thật. Nhưng quan trọng hơn là sau những tìm tòi, thể nghiệm ấy, chúng phải trở thành hấp lực và thu hút mọi chủ thể sáng tạo học tập, cộng hưởng để cuối cùng tạo ra một phong trào rầm rộ với hệ thi pháp độc đáo, mới mẻ, làm chuyển biến cho cả một thời kỳ hoặc một giai đoạn văn học với nhiều tác giả và tác phẩm tiêu biểu, xuất sắc. Và đặc biệt là thi pháp văn chương của cả phong trào ấy được bạn đọc cả nước đón nhận nồng nhiệt (Ở đây, các nhóm văn nói trên chưa tạo ra được sự đa dạng cần thiết trong sự thống nhất hệ thi pháp của cả nhóm mình nên chưa tạo ra được sự cộng hưởng của cả phong trào). Tôi nghĩ rằng, nếu tạo ra được những chuyển biến có tính cách mạng  hợp quy luật như thế thì nền văn học giai đoạn ấy, thời kỳ ấy sẽ sống mãi, sẽ có giá trị như một nối tiếp giá trị mới cho từng chặng hành trình của cả tiến trình văn học.

Soi chiếu vào nền văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, 1954 - 1975 thì vấn đề trở nên sáng tỏ. Thơ mới, văn chương Tự lực văn đoàn, văn chương hiện thực phê phán giai đoạn 1930 - 1945 đã thực sự trở thành những phong trào có sức hấp dẫn lớn, thu hút bao thi sĩ, văn nhân tài danh cùng tự nguyện đứng vào hàng ngũ và sáng tạo theo những tuyên ngôn riêng của nhóm, theo một phương pháp sáng tác nhất định, để cuối cùng trong sáng tác của họ, những đặc điểm thi pháp chung và riêng hiện ra một cách đa dạng, mới mẻ, tạo thành “một thời đại văn chương” âm vang, lộng lẫy. Và quan trọng hơn nữa là toàn bộ những thành tựu ấy của cả phong trào được độc giả cả nước cổ vũ đón nhận, xem như sức mạnh tinh thần và tình cảm của mình. Và cũng chính độc giả là nhân tố kích thích tác giả luôn tìm tòi, đổi mới để không ngừng tạo ra những bước nhảy vọt mới về chất cho các sáng tác trong giai đoạn kế tiếp. Văn học Việt Nam giai đoạn 1954 - 1975 cũng diễn ra trong quy luật như thế. Các văn nghệ sĩ đã học hỏi và sáng tạo trong một từ trường lịch sử - văn hóa thống nhất và có chung một quan niệm về nghệ thuật và con người, về vai trò của nhà văn trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Và họ đã thực sự tạo ra một hệ thi pháp mới mẻ - thi pháp văn học chống Mỹ cứu nước, phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của độc giả cả nước trong thời chiến. Văn học chống Mỹ đã thực sự là sức mạnh tinh thần của toàn dân, làm thành một thời đại văn chương theo phạm trù yêu nước, cách mạng và sử thi. Các tác giả ưu tú và tiêu biểu của giai đoạn này đến hôm nay vẫn đang là những tác giả sung sức, chủ lực, luôn tìm tòi, đổi mới và có nhiều đóng góp cho nền văn học hậu chiến của chúng ta với những tác phẩm xuất sắc theo yêu cầu của con người hiện đại, theo tầm đón của công chúng đương đại. Và văn học 1975 -2000 cũng diễn ra theo quy luật ấy, nhưng có sự đa dạng và phong phú hơn do đời sống thời bình quy định.

Trở lại vấn đề văn học hôm nay, tại sao ta chưa có nhiều những tác phẩm lớn  có giá trị như mong ước của mọi người? Tại sao ta chưa tạo ra được phong trào và chưa tạo ra sự thống nhất về khuynh hướng sáng tác để tạo ra hệ thi pháp tiêu biểu cho cả một thời kỳ và giai đoạn? Đó là vì, theo tôi, các văn nghệ sĩ chưa ý thức được vấn đề trên một cách sáng rõ. Mỗi người mỗi quan niệm, mỗi tuyên ngôn, mỗi cách thể hiện riêng mà theo họ, đó là độc đáo, là cách tân mới lạ của mình. Hơn nữa, các sáng tác kiểu ấy, đa phần lại công bố trên mạng, trên các phương tiện đặc biệt khác, chỉ một số người đọc được, còn đa số các độc giả khác chưa có dịp tiếp xúc. Vậy thì làm sao tạo ra được sự cộng hưởng về dư luận tiếp nhận, làm sao tạo ra được sự thống nhất nhưng đa dạng về thi pháp, khả dĩ đại diện mới mẻ và hợp quy luật cho văn chương thời đại mình? Vì vậy, sau những tuyên ngôn của họ, một thời đại văn học mà họ mong muốn vẫn ở tận đâu đó trong hút hắt của im lặng.

Một số tác phẩm văn học Việt Nam

Ở đây, ta chưa kể những cách tân cực đoan, những thăm dò và thể nghiệm vô tăm tích, ngoài tầm đón nhận và đón đợi của đa số độc giả đương thời. Không đón nhận và đón đợi không phải vì họ không hiểu hay cố tình không hiểu mà khách quan cũng có sự non kém do học đòi và tiếp thu nước ngoài một cách sống sượng, thiếu chọn lọc từ phía chủ thể sáng tạo. Mà theo tôi, một tác phẩm không được độc giả số đông (cả số ít ) thừa nhận thì tác phẩm ấy cũng tự nó đi vào quên lãng. Đó là nói về một tác giả. Ở đây, còn có hiện tượng nhiều tác giả, nhiều nhóm văn hữu, thi hữu tuyên bố rùm beng, nhưng cũng không tạo được sự hưởng ứng của độc giả (cả số đông và số ít) với tác phẩm của họ. Đó là tình trạng đang diễn ra với văn học mạng, văn học diễn đàn. Tình trạng đó kéo dài trong sự hờ hững đáng thương, chứ không phải như có trường hợp do ngộ nhận hoặc đánh giá sai, thiếu thiện chí. Bởi vì, nếu đánh giá sai và thiếu thiện chí thì bao giờ cũng được những người đánh giá đúng và có thiện chí bênh vực, thừa nhận. Nói ra điều này, tôi vẫn khẳng định rằng, văn học Việt Nam thời đương đại vẫn đang trên con đường khẳng định và phát triển, vẫn thể hiện sức sống mãnh liệt của mình với một chủ nghĩa nhân văn sâu sắc, với chất lượng nghệ thuật ngày càng cách tân, hiện đại của các tác giả tâm huyết, luôn tìm tòi và cách tân độc đáo, chủ yếu là các tác giả thời chống Mỹ và các tác giả thế hệ trưởng thành sau 1975. Những nhà văn chân chính bao giờ cũng là những nhà tư tưởng, nhà mỹ học và nhà đạo đức học trên hành trình sáng tạo không mệt mỏi của mình để hoài thai những tác phẩm có giá trị. Tôi chỉ không đặt niềm tin vào những giá trị dởm, những giá trị ảo. Mà điều đó, những độc giả có trình độ cao thì không dễ gì đánh lừa được họ.

Dĩ nhiên là chúng ta cũng phải thừa nhân rằng những hạn chế, bất cập ở phía người đọc, đặc biệt là người đọc phổ thông, bình thường trước những đổi thay của đời sống văn học đương đại thế giới và trong nước là có thật. Chưa kể đến những thực tế có liên quan đến văn học hậu hiện đại thì vấn đề lại càng phức tạp hơn. Lúc ấy, những giới hạn của chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận cũng là một thực tế. Cũng chính lúc ấy, Khoa nghiên cứu văn học lại phải thể hiện vai trò là “mỹ học và triết học” đang vận động của mình để trừu xuất và định hướng các vấn đề có liên quan đến quy luật sáng tạo và tiếp nhận văn học về mặt lý luận, lý thuyết để những gì còn tiềm ẩn, tranh cãi được hiện lên một cách hiển minh và khoa học, nhằm định hướng thẩm mỹ cho người đọc và cả người sáng tác.

3.  Vỹ thanh

Hơn lúc nào hết, trước mắt và lâu dài, những người làm công tác văn học nghệ thuật phải cùng nhau tìm một lối thoát và lối mở cho văn chương với một khát vọng thành thực, một tri thức và tinh thần học thuật cao để đưa văn học Việt Nam nhanh chóng hội nhập với văn học thế giới, vừa hiện đại, vừa đậm bản sắc dân tộc, vừa nhân văn chủ nghĩa, rút gần khoảng cách xa lạ với những gì mà văn chương nhân loại đang hướng đến và theo đuổi trong thời đại ngày nay. Hãy đề cao những giá trị thật, độc sáng và phát huy chúng không chỉ trong phạm vi dân tộc mà cả trong phạm vi thế giới; đồng thời cảnh báo, xóa bỏ những giá trị giả, giá trị ảo, phi nhân bản để văn học mãi mãi là sức mạnh tinh thần, có tác dụng thanh lọc và cứu rỗi tâm hồn con người trong hiện tại và lâu dài. Có như vậy, chúng ta tin rằng văn học Việt Nam  sẽ nhanh chóng tiến về phía trước, tránh lãng phí thời gian vàng ngọc để lao vào những thể nghiệm xa vời, thiếu khả năng thành hiện thực, dù nhiều lúc, chúng ta cũng biết rằng “thất bại là mẹ thành công”. Nhưng chúng ta cũng biết rằng có những thất bại vô cùng xa xót, chúng làm cho những thành công về sau cảm thấy buồn cười và đáng trách.

 

PGS-TS. Hồ Thế Hà
(Theo Văn nghệ Tiền Giang số 91)
Chia sẻ: Google Bookmarks Yahoo Bookmarks Đăng lên ZingMe Đăng lên Linkhay Đăng lên TagVn Bookmarks lêb baibu
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 1 trong 1 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Thăm dò ý kiến

Đánh giá của bạn về phiên bản mới này?

Tuyệt vời

Tốt

Trung bình

Bình thường

Rất tệ

Bộ đếm

  • Đang truy cập: 365
  • Khách viếng thăm: 360
  • Máy chủ tìm kiếm: 5
  • Hôm nay: 13166
  • Tháng hiện tại: 1464611
  • Tổng lượt truy cập: 45431844