Trở lại Bến Bà Từ (Tiền Giang) của Đường Hồ Chí Minh trên biển

Đăng lúc: Thứ hai - 03/11/2014 07:54
Với tên gọi “Đoàn tàu không số”, Đường Hồ Chí Minh trên biển đã vận chuyển hàng trăm ngàn tấn vũ khí và hàng chục ngàn lượt cán bộ vượt biển vào Nam chiến đấu. Đường Hồ Chí Minh trên biển là con đường huyết mạch, nối liền 2 miền Nam - Bắc.
Nhân chứng lịch sử bà Trần Thị E.
Nhân chứng lịch sử bà Trần Thị E.

Vào những ngày tháng 10 này, nhân kỷ niệm 53 năm mở Đường Hồ Chí Minh trên biển, chúng tôi có dịp trở lại 1 trong những trạm trung chuyển vũ khí của con đường huyền thoại này ở xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông là Trạm Bà Từ.


Trạm Bà Từ (trong quy ước gọi là Trạm B8) là trạm trung chuyển vũ khí từ bến Bến Tre về mặt trận Nam Long An, đặc khu Sài Gòn - Chợ Lớn và các tỉnh miền Đông. Theo lời kể của những người có mặt từ ngày đầu xây dựng Trạm B8 như sau: Sau khi tàu Phương Đông 1 vào bến Cà Mau thắng lợi, ngày
19-9-1962 Quân ủy Miền quyết định thành lập Đoàn 962 và đây cũng là ngày ra đời của bến Bến Tre. Đến tháng 9-1964, bến Bến Tre đã nhận 22 chuyến tàu với 825 tấn vũ khí. Từ đây trở đi, do lượng hàng về các kho càng tăng nên nhu cầu cần có 1 trạm trung chuyển và địa điểm thích hợp nhất được chọn sau quá trình bàn bạc kỹ lưỡng là khu vực Gò Công.

Đầu năm 1965, Ban Chỉ huy Đoàn 962 cử đồng chí Mai Văn Săng (Sáu Tấn) về tổ chức thêm 1 kho ở Bà Từ. Huyện ủy Gò Công đưa đồng chí Năm Thành, quê ở xã Quơn Long (huyện Chợ Gạo) giữ nhiệm vụ Đội trưởng; đồng chí Năm Lùng (Nguyễn Văn Lùng) quê ở Vàm Láng và Tư Hải (Nguyễn Long Hải) làm Đội phó.

Theo lời kể của đồng chí Tư Hải, Trạm phó Trạm B8, chuyện xây hầm làm kho chứa hàng trong thời kỳ lúc bấy giờ đã là một kỳ công. Vì đặc điểm địa lý và tự nhiên nơi đây là rừng bần, đước và cây mắm nên không cho phép đóng cây làm giàn kê rồi chất hàng, ngụy trang như ở bến Bến Tre, mà phải xây hầm kiên cố bằng bê tông cốt thép trong lòng đất.

Yêu cầu của trạm là phải xây 5 hầm ở các địa điểm: Lũy Pháo Đài (xã Phú Tân ngày nay, 1 hầm), rừng Bà Lẫm (xã Tân Thới ngày nay, 2 hầm) và cặp kinh Mới xã Tân Phú Đông (nay là xã Phú Đông, 2 hầm); mỗi hầm có sức chứa từ 3 - 5 tấn. Toàn bộ nguyên vật liệu xây dựng đều phải mua từ vùng giặc và do lực lượng nòng cốt ở cơ sở đảm trách.

Nhân chứng lịch sử bà Trần Thị E và căn hầm ở xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông của Trạm B8. Ảnh: NGỌC TRUNG
Căn hầm ở xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông của Trạm B8. Ảnh: Ngọc Trung

Để công việc xây hầm được bảo đảm an toàn, bí mật, lực lượng cán bộ địa phương lúc bấy giờ phải bắt đầu từ công tác điều tra, xây dựng nòng cốt, tuyên truyền giáo dục giác ngộ cách mạng trong quần chúng nhân dân và chọn lọc người để giao nhiệm vụ. Vì tính chất công việc cực kỳ quan trọng nên lực lượng tham gia xây dựng, vận chuyển và bảo vệ trạm được phân chia thành từng bộ phận riêng biệt nhau nhằm bảo đảm an toàn tuyệt đối.

Bà Trần Thị E, vợ của nguyên Chủ tịch xã Kiểng Phước lúc đó là cán bộ phụ nữ, được giao đảm trách công việc chọn lọc, móc nối cơ sở nòng cốt để tham gia vào quá trình vận chuyển vật liệu xây dựng trạm. Bà kể: “Lúc đó đời sống người dân nơi đây cực kỳ khó khăn và phải sống sát với đồn địch, nhưng bà con rất nhiệt tình tham gia, khôn khéo không để lộ bí mật”.

Bản thân bà E sau khi bị địch bắt, giam giữ và tra khảo 1 năm trời nhưng không moi được tin tức gì đành phải thả ra. Trong câu chuyện bà kể có 1 chi tiết rất xúc động, là khi bà bị địch bắt giam trong tù, chồng hoạt động bí mật, người con lớn trong nhà phải đi ở đợ để nuôi 2 đứa em. Vì kiên quyết không khai, đôi chân bà bị địch dùng cây đánh gần như không đi được… Được biết, bà E vừa được UBND xã hướng dẫn hoàn tất thủ tục để được hưởng chế độ tù đày theo quy định.

Trong tình hình tai mắt của địch lúc đó ở khắp mọi nơi, những người trực tiếp tham gia xây trạm không sao kể hết được những vất vả và bao mưu mẹo đánh lừa địch để bí mật vận chuyển hết số lượng cát, đá, xi măng, sắt thép về tới rừng xây kho chứa hàng.

Những ông Ba Banh, ông Mười Mòng, bà Chín, bà Sáu Nháng, bà Hai Mới, vợ ông Hai Hinh… đã tìm ra hàng loạt lý do cũng như bày nhiều cách để níu kéo cho lính đồn Bà Từ, đồn Pháo Đài ăn nhậu; nhỏ to đút lót không biết bao nhiêu trạm cho nó khỏi xét mỗi khi có ghe chở hàng đi ngang qua. Vợ đồng chí Tư Hải (Nguyễn Thị Thúy) còn kể:

Dưới đáy mỗi hầm đều phải phủ lên 1 lớp giấy bạc dày trên đầu cừ trước khi đổ bê tông, lót xung quanh trước khi xây thành, phủ nóc. Loại giấy bạc này phải đi đặt hàng trên Sài Gòn và đóng thành từng kiện, xong mới lập kế hoạch vận chuyển, kế hoạch đối phó với giặc trong mọi tình huống xấu, rồi chuyển về.

Toàn bộ lực lượng tham gia xây trạm phải chạy đua với thời gian, chống chọi với điều kiện khắc nghiệt nơi rừng hoang, nước mặn, thêm vào đó là sự càn quét, đánh phá bằng bom, pháo của kẻ thù. Nhưng với ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của cán bộ, chiến sĩ, sự ủng hộ, giúp đỡ của cơ sở nòng cốt ở địa phương nên 4 hầm chứa hàng (vũ khí) đã được chôn sâu trong lòng đất làm kho chìm và ụ bến để tàu vào cập bến an toàn.

Đây thực sự là một kỳ công của cán bộ, chiến sĩ Trạm B8 (Tiền Giang). Hàng về, mỗi khi hầm không chứa hết, hàng phải đem chôn gởi trong vườn người dân khu vực cây dúi ở ấp Bà Từ, người dân bảo vệ an toàn đến khi có lực lượng (đội kho) đến nhận và chuyển đi.

Từ ngày thành lập, trạm trung chuyển hàng ở Bà Từ được bố trí 1 trung đội vũ trang bảo vệ, đội kho có 25 người và 1 tiểu đội vận tải phụ trách bóc hàng về, xuất hàng đi. Lực lượng đó gọi là “trong biên chế”, do Đoàn 962 chỉ huy, quản lý.

Ông Nguyễn Văn My (xã Phú Tân, huyện Tân Phú Đông), nguyên là Đội trưởng Đội Bảo vệ trạm Bà Từ cho biết: “Việc đón, đưa tàu vào trạm an toàn; tiếp nhận, cất giữ, bảo quản và bàn giao vũ khí an toàn là công việc hết sức khó khăn, nguy hiểm. Nhưng việc chiến đấu bảo vệ địa bàn, bảo vệ kho, trạm lại càng quyết liệt, khó khăn và nguy hiểm hơn.

Do lực lượng chiến đấu của đơn vị ít, chủ yếu là Tiểu đoàn 514, địa bàn rộng nên các hoạt động chiến đấu đều phối hợp chặt chẽ với lực lượng của địa phương và dân quân, du kích”. Người đội trưởng năm xưa kể lại 1 trong những kỷ niệm khó quên trong công tác bảo vệ Trạm B8: Vào khoảng 21 giờ một ngày cuối tháng 6-1965, lực lượng bảo vệ của Trạm B8 làm nhiệm vụ bảo vệ 3 chiếc tàu của ta chở khoảng 45 tấn vũ khí xuất phát từ cồn Cống qua Cần Giờ thì bị địch phát hiện. 3 chiếc tàu vừa chống trả sự tấn công của địch vừa tăng tốc thì 1 trong 3 chiếc bị hư máy nên phải tấp vào ấp Đèn Đỏ (nay thuộc xã Tân Thành, huyện Gò Công Đông).

Được sự chi viện của Tiểu đoàn 514 và lực lượng cơ sở cách mạng tại địa phương, ta đã vận chuyển gần 10 tấn vũ khí ngay trong đêm đến nơi cất giữ an toàn; đồng thời phá hủy chiếc tàu bị hư để đảm bảo bí mật (2 tàu kia về bến an toàn). Trong cuộc chiến đấu này, 2 cán bộ của trạm là thuyền trưởng Nhái và 1 tài công bị trúng đạn hy sinh.

Dù chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn, nhưng những nỗ lực phi thường của cán bộ, chiến sĩ Trạm B8 cùng các lực lượng cách mạng và nhân dân địa phương đã hoàn thành nhiệm vụ được giao, góp phần quan trọng vào việc trung chuyển vũ khí, làm nên huyền thoại Đường Hồ Chí Minh trên biển.

Hồng Chương - Phùng Long
(Theo Ấp Bắc)
Chia sẻ: Google Bookmarks Yahoo Bookmarks Đăng lên ZingMe Đăng lên Linkhay Đăng lên TagVn Bookmarks lêb baibu
Đánh giá bài viết
Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết
 

Thăm dò ý kiến

Đánh giá của bạn về phiên bản mới này?

Tuyệt vời

Tốt

Trung bình

Bình thường

Rất tệ

Bộ đếm

  • Đang truy cập: 315
  • Khách viếng thăm: 312
  • Máy chủ tìm kiếm: 3
  • Hôm nay: 70155
  • Tháng hiện tại: 2438580
  • Tổng lượt truy cập: 48812707