Nhọc nhằn mưu sinh
Ánh chiều buông những tia nắng cuối cùng trên cánh đồng ngập lũ cặp dòng kênh Vĩnh Tế, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Nhiều xuồng ghe đi đánh lưới đêm đang chộn rộn chuẩn bị xuất hành. Trong hơn chục ghe xuồng đang lục đục chuẩn bị câu lưới cho chuyến “ăn đêm” thì chỉ có hai ghe chài chuyên đánh lưới bao vào ban đêm. Nhiều người cho biết nghề này vô cùng vất vả và đòi hỏi phải có đến năm bảy người sức khỏe dẻo dai mới làm được. Vì thế rất ít người chọn nghề đánh lưới bao, chỉ có những gia đình có đông người mà lại ít xuồng ghe mới tập họp thành một nhóm để hành nghề. Phải nài nỉ ỉ ôi tôi mới được anh Nguyễn Văn Nam, “thủ lĩnh” nhóm đánh lưới bao trong đêm ở đây đồng ý cho theo ghe.
Anh Nam phân trần: “Hỏng phải tui ích kỷ, tại đánh lưới ban đêm cực khổ, nguy hiểm dữ dằn. Mà ông phải biết lội (bơi) tui mới cho theo ghe, chứ đêm hôm giữa đồng lũ bao la như cái biển, trời tối đen như mực biết đâu tìm kiếm”. Bấy nhiêu điều kiện đặt ra, tôi đầu gật đầu ưng thuận, Nam mới yên lòng. Kêu vợ dọn cơm cho tôi cùng ăn “dằn bụng” để đủ sức thức cùng đoàn thâu đêm suốt sáng. Ăn cơm xong, chị Lẹ, vợ Nam mang lỉnh khỉnh đồ đạc xuống chiếc che chài đang đậu dưới bến, trong đó có cả nồi cơm và mẻ cá kho khi nãy còn ăn dở. Khi công việc chuẩn bị hoàn tất cũng là lúc màn đêm buông xuống tràn ngập cánh đồng ngập lũ. Nam thúc giục mọi người xuống ghe do anh cầm lái dong ra giữa cánh đồng như biển nước mênh mông. Bóng đêm làm tôi mất phương hướng, chỉ thấy thấp thoáng những rặng cây lù lù nổi lên trên mặt nước qua ánh đèn pha do Nguyễn Văn Út, một thành viên đánh lưới mang trên đầu. Tiếng máy đuôi tôm tành tạch nổ giòn đều rồi lại mất hút giữa màn đêm tĩnh mịt. Ngó lên bầu trời chỉ còn một vài vì sao cuối cùng le lói, tôi tưởng tượng như một chiếc chảo mầu đen khổng lồ treo lơ lửng trên đầu. Trên đồng vắng không một bóng người, thi thoảng xa xa có tiếng cuốc gọi bầy nghe não nuột.
Đối mặt hiểm nguy
Anh Nam tiếp tục cầm lái dong ghe đi trong đêm tối. Tiếng gió thốc ù ù bên tai lấn át cả lời tâm sự nghẹn lòng của những “cánh vạc” đêm cần mẫn. Cằm tôi rung lập cập, cứ liên tục đánh vào nhau. Tôi ngồi co rúm lại nhưng vẫn nghe lạnh buốt, tái tê da thịt. Nhưng với những kẻ “ăn đêm” như Nam, Linh, Út và chị Lẹ thì cái lạnh ấy có hề gì. Bởi với họ cái đáng sợ, tê buốt hơn chính là miếng cơm manh áo, nếu lũ trẻ không được đến trường. Càng về khuya sương rơi càng nặng hạt, cái lạnh đã thấm sâu vào từng thớ thịt mỗi người. Tiếng máy đuôi tôm bỗng dưng trả về mức ga leng-ti rồi tắt hẳn. Linh và Út biết đây là nơi đánh mẻ lưới thứ hai. Cả luồng lưới dài thậm thượt được thả xuống cánh đồng nước lũ. Mỗi người một vị trí, một nhiệm vụ cố định nên tất cả đều thoăn thoắt đôi tay không vướng víu. Nhanh tay xổ lưới xuống nước, khi cả luồng lưới dài tạo nên hình bán nguyệt thì họ lại phải dùng hết sức kéo trở lên ghe. Linh lại lao mình xuống dòng nước lạnh, trầm dưới đó gần cả tiếng đồng hồ. Mẻ lưới này khá hơn lượt đánh đầu tiên, cái bìu lưới kéo lên nặng trịch. “Mười mấy hai chục ký cá à nghen”, giọng anh Nam phấn khởi như khích lệ cả đoàn.
Sau mẻ lưới thứ hai kha khá, mọi người trên ghe mới thở phào nhẹ nhõm, nếu không coi như lỗ nặng tiền xăng, công lao động cả đêm dài coi như đổ sông, đổ biển. Phút nghỉ ngơi hiếm hoi của họ là lúc bày vội nồi cơm và mẻ cá kho ra vạc ghe ăn đỡ đói. Ăn xong, mỗi người đốt một điếu thuốc lá rồi phì phà nhả khói để “chống” cái lạnh thấu xương. “Ông thấy đánh lưới bao ban đêm cực khổ ghê không. Cho nên, đâu có ai làm cái nghề gian khổ này ngoài những người nghèo rớt mồng tơi như tụi tui”, anh Nam nói nửa như phân trần nửa như trách than số phận.
Theo anh Nam, thường thì có từ ba đến năm mẻ lưới bao được đánh trong đêm. Tùy vào luồng cá và con nước, nếu đúng con nước có cá đi thì chỉ cần ba mẻ lưới đã đủ sống rồi. Nhưng đêm nay “bà cậu” không hào phóng như trước nữa. Anh Nam quyết định đánh mẻ lưới thứ ba để kịp “chạy bão” giữa đồng. Chị Lẹ có phần lo ngại trước quyết định liều lĩnh của chồng. Vì lúc này cả bầu trời đã trở nên xám xịt khói đèn, dấu hiệu trời sắp nổi mưa giông. Lo là vậy nhưng nghĩ tới lũ trẻ con ở nhà, hủ gạo đã vơi tận đáy, họ lại quên hết mọi thứ đang sắp diễn ra xung quanh. Quả thật, khi hai viền lưới chưa kịp giáp với nhau thì mưa bắt đầu ập tới. Mọi người trên ghe phải cố hết sức kéo và kéo lưới thật nhanh. Anh Linh vẫn lưng trần trầm mình dưới nước, dầm gần suốt cơn mưa. Mưa mỗi lúc càng nặng hạt, mưa như trút nước khiến chút ánh sáng nhỏ nhoi từ ánh đèn pha trên đầu của Út và Linh nhạt nhòe. Mẻ lưới “chạy bão” nên mọi người không còn quan tâm được bao nhiêu cá.
Trong bóng tối, tôi vẫn nhìn thấy những ngọn sóng “bỏ vòi” trắng xóa dồn dập vây lấy chiếc ghe chài. Anh Nam lại nổ máy, lao đi vội vã nhắm hướng rặng cây lù lù phía trước thẳng tiến. Linh nói, nghề đánh lưới đêm sợ nhất là gặp mưa to gió lớn giữa đồng. Khi cuồng phong trỗi dậy thì cả cánh đồng lũ hiền hòa bỗng trở nên hung tợn với những con sóng cao lừng lửng. “Có khi phải “bỏ của chạy lấy người”, nếu không thì chỉ cần một vài con sóng đã có thể nhấn chìm chiếc ghe chài. Khi đó, giữa đồng không có nơi bám víu, tính mạng cũng khó giữ, chứ nói gì đến lưới chài mà tiếc. Làm cái nghề “đâm hà bá” này thì đủ ăn đã là mừng, nhưng mỗi lần bị chìm ghe thì coi như vướng nợ vì phải vay hỏi tiền sắm dàn lưới mới”, Linh bộc bạch.
Như một thủy thủ lành nghề, không la bàn, không một công cụ định vị hỗ trợ, anh Nam vẫn lèo lái chiếc ghe khỉnh lưới, cá, người quay về nơi xuất phát. Cái chợ chồm hỏm ngay chân cầu Tha La lúc này cũng bắt đầu nhóm họp chờ mua cá của những người đánh bắt đem về. Ánh sao Mai phía chân trời cũng sắp đi ngủ, nhường khoảng trời cho ánh bình minh. Sau khi chia nhau những đồng bạc ít ỏi của một đêm dài lao động cật lực, những người đánh lưới lục đục ra về … đi ngủ, lấy lại sức và chuẩn bị cho chuyến mưu sinh của đêm kế tiếp.
Ý kiến bạn đọc