Quán quân về nhất

Quán quân về nhất

Truyện ngắn của D.H. Lawrence

VNTG-Lawrence (David Herbert Lawrence), (1885 - 1930) sinh ở Nottinghamshire, Anh quốc, là một trong những nhà văn lỗi lạc của thế kỷ 20. Những tác phẩm nổi tiếng của ông là Những đứa con trai và những người tình (Sons and lovers, 1913), Cầu vồng (The rainbow, 1915), Những người đàn bà đang yêu (Women are in love, 1920 ), và đặc biệt là tiểu thuyết đã gây xôn xao dư luận một thời, Người tình của Chatterley phu nhân (Lady Chatterley’s lover, 1928). Ông còn viết nhiều thơ, truyện ngắn, Quán quân về nhất là truyện ngắn nổi tiếng của ông.

Chị, một phụ nữ xinh đẹp, khởi đầu cuộc sống với mọi điều thuận lợi nhưng lại không may mắn. Chị lập gia đình vì tình yêu, nhưng tình yêu cũng nhanh chóng lụi tàn. Chị có những đứa con xinh xắn, nhưng lại không yêu chúng và xem chúng như gánh nặng. Những đứa con luôn nhìn chị lạnh lùng như thể chúng đang phê phán chị điều gì đó. Và chị luôn cảm thấy mình như có lỗi khi đứng trước chúng. Lúc bọn trẻ ở cạnh, lòng chị dửng dưng, không chút yêu thương. Nhưng bề ngoài, chị luôn tỏ ra dịu dàng, tỏ ra quan tâm lo lắng tới những đứa con của mình, như thể chị yêu chúng lắm. Chỉ tận đáy lòng, chị nhận ra mình không có tình cảm dành cho các con. Nhưng ai cũng bảo rằng chị là một người mẹ tốt, chị yêu con cái biết bao. Chỉ riêng người mẹ, và những đứa trẻ thì biết là không phải vậy. Họ đọc điều ấy rõ ràng trong mắt nhau.

Chị có một cậu trai và hai bé gái nhỏ. Họ sống ở ngôi nhà sang trọng, trong một khu vườn rộng, với những người hầu tận tụy, và luôn cảm thấy cuộc sống của mình hơn hẳn mọi người chung quanh.

Nhưng dù sống phong lưu, họ vẫn luôn thấy bất an vì thường xuyên thiếu thốn tiền bạc cho việc chi tiêu. Hai vợ chồng, mỗi người có một khoản thu nhập nhỏ, và khoản tiền ít ỏi nầy không đủ trang trải cho những nhu cầu sa hoa của họ. Người cha đi vào thị trấn làm một công việc gì đó. Nhưng dù anh được đánh giá là có triển vọng tốt, anh vẫn không kiếm được nhiều tiền. Họ luôn phải đối mặt với sự thiếu hụt, dù bề ngoài vẫn giữ lối sống thượng lưu.

Cuối cùng, người mẹ nói: "Chắc em phải tìm việc làm thêm để kiếm tiền!" Nhưng chị không biết phải bắt đầu từ đâu. Chị vắt óc nghĩ ngợi, làm việc nầy việc nọ, nhưng không thành công. Sự thất bại khiến những nếp nhăn hằn sâu trên mặt chị. Những đứa trẻ ngày một lớn, chúng cần phải đến trường. Phải có nhiều tiền! Phải có nhiều tiền hơn nữa! Nhưng cả hai vợ chồng, người cha, người đàn ông đẹp trai, cốt cách sang trọng, dường như không hề biết phải làm gì để mang lại lợi ích cho gia đình. Còn người mẹ, vốn có niềm tin mạnh mẽ vào chính mình, thì không thể làm tốt bất cứ điều gì ngoại trừ việc duy trì lối sống sa hoa của bản thân.

Và ngôi nhà thường bị ám ảnh bởi những lời tuy không nói ra nhưng ai cũng hiểu: Phải có nhiều tiền! Phải có nhiều tiền hơn! Những đứa trẻ có thể nghe câu nói ấy bất cứ lúc nào, dù chẳng ai thốt lên. Chúng nghe nó vào dịp Giáng sinh, khi những món đồ chơi lộng lẫy và đắt tiền bày đầy trong phòng trẻ. Đàng sau con ngựa gỗ hiện đại, đàng sau ngôi nhà búp bê xinh xắn, dường như là nơi bắt đầu tiếng thì thầm: Phải có nhiều tiền! Phải có nhiều tiền hơn! Đôi lúc, bọn trẻ ngừng chơi để lắng nghe. Rồi chúng nhìn vào mắt nhau, để xem liệu rằng có phải tất cả đều đã nghe thấy điều nầy. Và đứa nầy đã đọc thấy trong mắt đứa khác, rằng chúng đều đã nghe: Phải có nhiều tiền! Phải có nhiều tiền hơn!

Lời thì thầm đến từ sợi dây đu đưa của con ngựa gỗ, thậm chí phát ra từ chính con ngựa, từ cái đầu bằng gỗ uốn cong, từ con búp bê lớn, đặt trong chiếc xe đẩy màu hồng mới toanh luôn cười ngớ ngẩn, dường cũng nghe rõ tiếng thì thầm. Cả chú chó con ngốc nghếch đặt thay chỗ con gấu Teddy cũng trông khác thường như thể chúng đã nghe được lời thì thầm bí mật: Phải có nhiều tiền hơn!

Tiếng thì thầm hầu như ở mọi nơi, dù rằng không ai thốt lên, giống như không ai thậm chí nói: "Chúng ta đang thở!", dù rằng mọi người đều phải thở.

Một ngày, cậu bé Paul hỏi mẹ:

- Tại sao nhà mình không có xe riêng, tại sao chúng ta cứ phải đi taxi hoặc đi nhờ xe của chú?

- Bởi vì chúng ta là những người nghèo. Người mẹ trả lời.

- Nhưng tại sao chúng ta lại nghèo?

- Bởi vì - Giọng người mẹ trở nên cay đắng - bởi vì cha con không được may mắn.

Cậu bé im lặng một lúc.

- Có phải may mắn là có tiền không mẹ - nó rụt rè hỏi.

- Không, Paul, không phải vậy. Nhưng may mắn thì sẽ mang lại tiền.

- Vậy may mắn là gì hở mẹ?

- May mắn là cái đem lại tiền của. Nếu con may mắn con sẽ có tiền. Vì vậy thà được sinh ra trong may mắn còn hơn là sinh ra trong giàu có. Nếu con giàu, con có thể mất tiền của mình, nhưng nếu con may mắn, con sẽ luôn kiếm được nhiều tiền.

- Ồ, thật vậy hả mẹ? Bộ cha không may mắn sao?

- Rất  là không may, người mẹ cay đắng trả lời.

Thằng bé nhìn mẹ lom lom, vẻ ngờ vực.

- Sao vậy?

- Mẹ không biết, không ai biết được sao người nầy may mắn còn người khác thì không.

- Không ai biết à? Liệu có ai biết không mẹ?

- Chắc chỉ có Thượng Đế biết, nhưng Ngài không nói với chúng ta.

- Ngài phải nói chứ. Còn mẹ cũng không may mắn sao?

-  Vâng, vì mẹ lấy một người chồng không may mắn.

- Nhưng chính mẹ thì sao?

- Mẹ nghĩ trước khi lấy cha con, mẹ đã từng may mắn. Bây giờ thì ngược lại.

- Tại sao?

- Mà thôi, đừng bận tâm tới chuyện nầy  nữa! Mẹ cũng không biết chắc lắm đâu.

Thằng bé nhìn mẹ nó, nhìn những vết nhăn quanh miệng chị, nghi rằng chị giấu nó điều gì. Rồi bỗng nó nói một cách dõng dạc.

- Dẫu thế nào, con cũng là người may mắn.

Mẹ nó bật cười.

- Tại sao?

- Thượng Đế nói với con.

Nó quả quyết một cách trâng tráo. Mẹ nó lại cười, nhưng nụ cười thoáng chút mỉa mai.

- Mẹ cũng mong thế!

- Thật mà mẹ!

- Tốt thôi!

Chị bắt chước câu nói ưa dùng của chồng. Thằng bé thấy bực vì mẹ không tin,  không chú ý đến điều nó khẳng định. Nó càng muốn làm một điều gì đó buộc mẹ phải chú ý. Nó bỏ đi, trong suy nghĩ trẻ con quyết tâm tìm ra manh mối sự may mắn. Mải mê, không để ý đến mọi người chung quanh, thằng bé bắt đầu thầm kín kiếm tìm may mắn. Nó muốn may mắn, muốn được may mắn biết bao! Khi hai em gái chơi búp bê trong phòng trẻ, nó leo lên con ngựa đu, lắc lư dữ dội với tất cả sự cuồng nhiệt làm hai đứa em ngạc nhiên sợ hãi nhìn nó. Con ngựa lao nhanh mãnh liệt, như trong cơn phi nước đại làm mái tóc đen, gợn sóng của nó tung lên, mắt nó nhìn trừng trừng vào hai cô em. Hai cô bé lặng thinh không dám nói gì.

Khi đã đến đích của cuộc hành trình điên cuồng, thằng bé tuột xuống, đứng trước con ngựa gỗ, nhìn chòng chọc vào khuôn mặt bên dưới, cái miệng màu đỏ hơi hé, cặp mắt mở to đờ đẫn của con ngựa.

- Nào, nó ra lệnh thầm cho con chiến mã như đang thở dốc, giờ hãy đưa ta đến nơi có may mắn, mau lên!

Thằng bé đánh vào cổ con ngựa bằng chiếc roi nhỏ đã xin chú Oscar. Nó cho rằng con ngựa chỉ đưa nó đến nơi có may mắn nếu nó bắt buộc. Nên nó lại trèo lên con ngựa gỗ, và lại nhún đu một cách điên rồ, hy vọng cuối cùng sẽ đến được nơi may mắn mà nó chắc rằng mình sẽ tới được.

- Nầy, cậu sẽ làm gãy con ngựa mất, Paul à! Chị trông trẻ nói.

- Ảnh luôn cởi ngựa như vậy. Khiếp lắm. Em mong  ảnh ngừng lại cho rồi. Joan, cô em gái lớn của Paul phàn nàn.

Paul im lặng nhìn xuống họ một cách giận dữ. Chị giữ trẻ để mặc Paul. Dẫu sao, cậu đã lớn, vượt ngoài sự chăm sóc của chị.

Một ngày mẹ Paul và chú Oscar vào phòng lúc nó đang cưỡi con ngựa điên cuồng. Nó không chào, không nói gì với họ.

- Chào chàng kỵ mã trẻ. Cháu đang cưỡi con ngựa về nhất đấy hả?

- Con lớn quá rồi, cưỡi ngựa gỗ trông kỳ quá! Mẹ Paul phàn nàn.

Paul nhìn họ trừng trừng bằng cặp mắt xanh, to gần như nhắm lại. Nó thường không nói với ai khi đang đua hết tốc lực. Người mẹ nhìn nó, vẻ lo lắng.

Cuối cùng nó cũng ngừng cuộc phi nước đại và nhảy xuống.

- Con đã đi tới đích. Nó thông báo một cách giận dữ. Cặp mắt xanh vẫn rực sáng còn hai chân thì dạng ra.

- Con tới đâu vậy? Người mẹ hỏi.

- Tới nơi mà con muốn đến.

- Tốt thôi, con trai. Con đã không ngừng lại cho tới khi về đích. Tên con ngựa là gì vậy? Chú Oscar hỏi.

- Nó không có tên, Paul trả lời.

- Về nhất mà không có tên à? Ông chú hỏi gặng.

- Nó có nhiều tên lắm. Tuần rồi nó tên Sansovino.

- Sansovino, ồ đó là con ngựa thắng cuộc ở trường đua Ascot. Sao cháu biết tên nó?

- Anh ấy luôn nói chuyện  đua ngựa với Bassett. Joan xen vào.

Ông chú có vẻ thích thú vì đứa cháu quan tâm đến tin tức đua ngựa. Bassett là người làm vườn trẻ do Oscar giới thiệu cho gia đình nầy. Anh ta là lính cận vệ, bị thương chân trái trong chiến tranh, là một tay am tường mọi tin tức, và sống dựa vào các cuộc thi đấu ở trường đua.

Oscar Cresswell tìm người làm vườn hỏi cho ra lẽ.

- Thưa ông, cậu Paul cứ hỏi cháu vì thế cháu không biết làm sao hơn là nói cho cậu rõ.

Bassett trả lời, khuôn mặt nghiêm nghị như tín đồ đang luận bàn về  tôn giáo.

- Vậy thằng bé cũng tham gia trò cá cược?

- Vâng, cháu không muốn lộ bí mật nầy - cậu ấy là một con bạc nhỏ tuổi mà rất may mắn. Mà cậu nhỏ mê đua ngựa lắm. Hay ông cứ hỏi thẳng cậu Paul, chứ không cậu sẽ cho là cháu đã tiết lộ việc riêng tư của cậu.

Ông chú trở lại chỗ Paul, kéo nó ra khỏi con ngựa gỗ, lên xe  đi chơi cùng ông.

- Nầy, ông cụ non, cháu có bao giờ đặt cược con ngựa cháu thích chưa?

Cậu bé nhìn chằm chằm vào khuôn mặt đẹp trai của ông chú.

 - Sao… chú thấy không nên à? Nó lảng chuyện.

- Ô! Không! Chú còn muốn cháu mách cho chú con ngựa nào về nhất ở trường đua Lincoln hôm nay đấy.

Xe ra đến ngoại ô, tới chỗ của chú Oscar ở Hampshire.

- Chú phải hứa danh dự là không tiết lộ tin nầy với ai nghen? Thằng bé nói.

- Ừ, chú hứa danh dự mà!

- Đó là con Daffodil.

- Daffodil? Chú không tin con ngựa nầy. Thế còn Miza thì sao, cháu yêu?

- Cháu chỉ biết con ngựa về nhất. Đó là Daffodil.

- Daffodil?

Một phút im lặng vì người chú có vẻ không tin tưởng vào con Daffodil lu mờ.

- Chú nầy!

- Gì hở cháu?

- Chú đừng nói với ai tin nầy nghen. Cháu đã hứa với Bassett.

- Bassett, đồ chết tiệt đó thì có liên quan gì tới chuyện nầy?

- Anh ấy cùng phe với cháu. Lần đầu, ảnh cho cháu mượn năm si ling và cháu đã thua. Cháu đã hứa danh dự với ảnh là chuyện nầy chỉ có cháu với ảnh biết, chỉ khi chú cho cháu mười si ling cháu bắt đầu thắng luôn, vì vậy cháu nghĩ chú là người may mắn. Chú sẽ không kể với ai về con Daffodil nhé?

Thằng bé nhìn chằm chằm ông chú bằng cặp mắt xanh, mở to nẩy lửa. Người chú thấy bồn chồn, cười bối rối.

- Ừ, cháu yên chí đi. Chú sẽ giữ kín chuyện nầy. Daffodil à? Vậy cháu đặt bao nhiêu cho con ngựa nầy?

- Tất cả tiền cháu có trừ lại 20 bảng để dự phòng.

Ông chú nghĩ thằng bé chỉ nói đùa cho vui.

- Cháu giữ 20 bảng để dự phòng, chàng trai lãng mạn, vậy rồi cháu đặt cược bao nhiêu cho con Daffodil?

- Cháu đặt 300 bảng - thằng bé nói một cách nghiêm nghị - mà chú hứa danh dự là chuyện nầy chỉ cháu với chú biết thôi nghen?

Ông chú cười phá lên.

- Ừ, chỉ chú và cháu biết thôi, cậu bé am tường về ngựa! Ông chú cười lớn, vậy 300 bảng của cháu đâu?

- Bassett giữ giùm cháu. Chúng cháu cùng phe với nhau mà.

- Cháu thật là… vậy Bassett đặt bao nhiêu cho Daffpdil?

- Cháu cho rằng anh ấy không đặt cao như cháu. Khoảng một trăm hay năm mươi.

- 50 XU phải không? Ông chú cười to.

- Không, năm mươi BẢNG cơ. Bassett để dành tiền nhiều hơn cháu vì sợ thua.

Ngạc nhiên và thích thú, ông chú không hỏi thêm nữa, nhưng quyết định đưa thằng cháu nhỏ tới trường đua Lincoln.

- Nào, cậu bé, chú sẽ đặt 20 bảng cho con Miza, và đặt cho cháu 5 bảng cho bất cứ con ngựa nào cháu lựa. Cháu chọn con nào?

- Daffodil, chú à.

- Không, đặt con khác đi.

- Nếu vậy cháu sẽ đặt bằng tiền của cháu.

- Được rồi, được rồi. Vậy chú đặt 5 bảng phần cháu và 5 bảng phần chú cho Daffodil.

Thằng bé chưa bao giờ có mặt ở trường đua, cặp mắt xanh của nó như có lửa, nó mím chặt môi nhìn chằm chằm ra sân đua. Một gã người Pháp đặt tiền cho con Lancelor. Ông ta sôi nổi vung tay lên xuống và hét lớn bằng giọng Pháp: Lancelor! Lancelor!

Daffodil về nhất, Lancelor về nhì, Miza đứng thứ ba. Thằng bé mặt đỏ bừng, cặp mắt xanh rực lửa, trầm lặng một cách lạ lùng. Ông chú đưa cho nó bốn tờ 5 bảng, một ăn bốn.

- Cháu sẽ làm gì với số tiền nầy? Ông vẫy xấp tiền trước mắt thằng bé.

- Cháu nghĩ chúng ta nên gặp Bassett. Bây giờ cháu đã có 1.500 bảng, với 20 bảng để dành, và 20 bảng này nữa…

Ông chú nhìn thằng bé dò xét.

- Này cháu, cháu nói thật về Bassett và 1.500 bảng đó chứ?

- Vâng, cháu nói thật. Nhưng chú hứa danh dự không nói với ai nghen.

- Ừ, chú hứa. Giờ mình đi gặp Bassett nhé.

- Vâng, nhưng anh ấy là người cùng phe. Chú có muốn vào phe của tụi cháu không? Chỉ mình chú thôi nhưng chú phải hứa danh dự là không được kể với ai. Bassett và cháu may mắn lắm, mà chú cũng vậy bởi vì chính từ 10 si-ling của chú, cháu đã thắng…

Chú Oscar đưa Bassett và Paul tới công viên Richmond vào một buổi chiều. Ba người trò chuyện cùng nhau.

- Sự việc là như vầy, thưa ông - Bassett kể - cậu Paul hay hỏi tôi về những cuộc đua ngựa, tôi đã kể huyên thuyên với cậu. Cậu luôn biết trước việc tôi thắng hoặc thua. Cách đây gần một năm, tôi đặt 5 si-lling cho con Blush ở Dawn cho cậu ấy, và chúng tôi đã thua. Rồi may mắn tới khi chúng tôi đặt cược con Singhalese với 10 si-ling mà ông cho cậu. Từ đó, chúng tôi hay thắng, vì mọi việc đều được cân nhắc kỹ lưỡng. Cậu nói gì đi chứ, Paul!

- Khi cháu chắc chắn thì chúng cháu thắng, còn khi không chắc lắm thì sẽ thua.

- Vậy làm sao biết được khi nào là chắc chắn?

- Điều nầy tùy thuộc ở Paul - Bassett thì thầm một cách sùng bái - Như thể cậu được Chúa mách bảo. Như trường hợp con Daffodil ở Lincoln. Chắc ăn như bắp!

- Cậu cũng đặt cược con Daffodil chứ?

- Vâng, tôi cũng kiếm được chút đỉnh, thưa ông.

- Vậy còn cháu tôi? Nó đánh cá bao nhiêu ?

Bassett lưỡng lự, nhìn Paul. Nó nói.

- Tôi thắng 1.200 pound, phải không Bassett ? Với 300 vốn là 1.500 bảng.

- Vâng, Bassett gật đầu.

- Vậy số tiền ấy ở đâu?

- Cháu cất giùm Paul, khóa lại cẩn thận. Khi nào cậu ấy cần thì cháu đưa ngay cho cậu.

- Cái gì? 1.500 bảng à?

- Còn 20 bảng, à không 40 bảng nữa, ý cháu nói cả 20 bảng Paul vừa được trong trường đua.

Ông chú tỏ ra ngạc nhiên về số tiền nầy.

- Xin lỗi, nếu cậu Paul đề nghị ông cùng hợp tác, ông nghĩ sao?

Chú Oscar có vẻ nghĩ ngợi.

- Tôi muốn thấy tận mắt số tiền Paul đã kiếm được.

Họ lái xe trở về nhà. Bassett đi vòng quanh khu nhà vườn và mang tới một nghìn rưỡi tiền giấy. Hai mươi bảng dự trữ thì được ký gửi trong tài khoản cá nhân ở ngân hàng.

- Chú thấy đấy, khi chắc chắn, cháu sẽ thắng. Chúng ta sẽ giàu phải không Bassett ?

- Đúng vậy, cậu Paul.

Ông chú cười lớn.

-  Vậy khi nào thì cháu biết được chắc chắn?

- Ồ… thỉnh thoảng cháu chắc chắn… như Daffodil… thỉnh thoảng cháu nghĩ được, cũng có lúc cháu không nghĩ ra, phải không Bassett ? Lúc đó, chúng ta phải cẩn thận nếu không thì…

- Đúng, đúng !

Thế khi cháu chắc chắn, như Daffodil chẳng hạn, cái gì làm cháu chắc chắn ?

Thằng bé tỏ vẻ khó chịu.

- Cháu không biết… khi cháu nghĩ ra con ngựa nào về nhất và tin chắc như vậy thì cháu sẽ thắng, thế thôi.

Bassett xen vào.

- Như có Thượng Đế mách bảo vậy !

- Có lẽ là vậy, ông chú tán đồng.

Ông chú nhập phe cùng họ. Khi cuộc đua ở Leger tới gần, Paul đoan chắc con Lively Spark, một con ngựa rất mờ nhạt. Thằng bé khăng khăng đặt một ngàn, Bassett năm trăm, chú Oscar hai trăm. Lively Spark về nhất. Độ cá một ăn mười, Paul kiếm được mười ngàn. Chú Oscar được hai ngàn.

- Chú thấy chưa, cháu biết chắc tên con ngựa thắng cuộc mà!

- Cháu sẽ làm gì với số tiền nầy?

- Dĩ nhiên cháu sẽ cho mẹ. Mẹ nói mẹ không may vì ba là người không may, nên cháu nghĩ nếu cháu may mắn thì trong nhà sẽ không còn tiếng thì thầm nữa.

- Không còn tiếng thì thầm gì?

- Tiếng thì thầm trong nhà chúng ta, cháu ghét lắm.

- Nhưng tiếng thì thầm gì vậy?

- Cháu không biết - Paul nói một cách bồn chồn - Nhưng nó giống như tiếng kêu ca vì thiếu thốn tiền bạc. Chú biết điều đó phải không?

- Ừ, chú biết, chú biết, con trai.

- Mẹ cháu luôn nhận giấy báo đòi nợ phải không chú?

- Chắc là vậy, con à.

- Và sau đó, trong nhà rộn lên những lời thì thầm, giống như những tiếng cười nhạo sau lưng. Thật khủng khiếp! Vì vậy cháu nghĩ nếu cháu may mắn…

- Thì cháu sẽ dập tắt những lời thì thầm nhạo báng đó?

Thằng bé không trả lời, nó nhìn ông chú, cặp mắt xanh lóe lên những tia sáng lạnh lùng kỳ quặc.

- Vâng, vâng. Vậy chúng ta sẽ làm gì?

- Cháu không muốn mẹ biết cháu là người may mắn.

- Sao vậy?

- Mẹ sẽ ngăn cháu lại.

- Chú không nghĩ là bà ấy sẽ làm vậy.

- Ồ, nhưng cháu không muốn mẹ biết, chú à - thằng bé phản ứng một cách quyết liệt.

- Được, được. Nhưng chúng ta sẽ xoay xở số tiền nầy như thế nào để bà ấy không biết?

Cuối cùng, họ cũng có cách giải quyết. Paul gợi ý sẽ giao 5.000 bảng cho ông chú, ông sẽ ủy thác cho luật sư gia đình báo cho mẹ Paul biết có một người bà con gửi cho ông ấy 5.000 bảng và số tiền nầy sẽ được rút ra mỗi lần 1.000 bảng vào dịp sinh nhật của chị trong vòng 5 năm.

- Hay lắm. Mẹ cháu sẽ nhận được quà sinh nhật 1.000 bảng liên tiếp trong 5 năm. Mong rằng với số tiền nầy sẽ giúp chị ấy xoay xở dễ dàng hơn.

Sinh nhật mẹ Paul vào tháng 11. Không khí trong nhà ngày càng nặng nề bởi tiếng thì thầm bí ẩn. Paul nôn nóng trông đợi ngày lá thư chúc mừng sinh nhật đến, lá thư sẽ báo cho mẹ nó biết về món quà 1.000 bảng.

Khi nhà không có khách, Paul thường ăn cùng ba mẹ vì nó đã quá lớn để ăn trong phòng trẻ. Mẹ nó đi vào thị trấn mỗi ngày. Chị chợt phát hiện mình có chút tài vặt về việc vẽ trên vải và da thú. Chị làm việc  kín đáo trong xưởng vẽ của một người bạn là "họa sĩ" chuyên vẽ cho những người bán vải. Cô ấy vẽ hình quí bà trên bộ lông thú, trên lụa và vẽ trang trí quảng cáo trên báo. Nữ họa sĩ trẻ nầy kiếm được vài ngàn bảng mỗi năm, trong khi mẹ Paul chỉ nhận được vài trăm. Chị bất mãn vì luôn mong muốn dẫn đầu trong mọi công việc, nhưng ngay cả việc vẽ quảng cáo trên vải chị cũng chẳng thành công.

Buổi sáng ngày sinh nhật, lúc cùng ngồi ăn sáng, Paul quan sát vẻ mặt  mẹ khi chị đọc lá thư, mà cậu biết của luật sư gửi tới. Khi đọc thư mặt chị đanh lại, khóe miệng mím chặt, vẻ kiên quyết lạnh lùng. Rồi chị giấu lá thư dưới chồng báo, không nói gì.

- Có thiệp chúc sinh nhật nào làm mẹ vui không? Paul hỏi.

- Cũng có, con à. Người mẹ trả lời, giọng lạnh lùng xa vắng.

Chị đi vào thị trấn không nói gì thêm về bức thư.

Vào buổi chiều, chú Oscar đến, bảo với Paul rằng mẹ nó đã có cuộc điều đình với luật sư yêu cầu được nhận hết 5.000 bảng một lần để trang trải nợ nần.

- Chú thấy sao hở chú? Thằng bé hỏi.

- Chuyện nầy tự cháu quyết đi.

- Vậy cứ đưa mẹ cháu hết. Chúng ta sẽ kiếm được nhiều hơn mà.

- Một con chim trong lồng vẫn hơn hai con trong bụi cháu à!

- Chú yên tâm. Cháu sẽ biết chắc con ngựa về nhất trong cuộc đua Grand National, Lincolnshire, và cả Derby nữa. Paul đoan chắc.

Chú Oscar xiêu lòng, và mẹ Paul đã nhận toàn bộ 5.000. Trong nhà lại có thêm nhiều đồ đạc mới, Paul có một gia sư, để chuẩn bị sẵn sàng cho việc đến trường vào mùa thu tới. Mùa đông năm ấy, nhà được trang hoàng nhiều hoa và vô số vật xa xỉ mà mẹ Paul quen dùng. Nhưng kỳ lạ là sau đó, tiếng thì thầm trong nhà chẳng những không bớt đi mà càng lúc càng trở nên điên cuồng giống như một dàn đồng ca. Giọng thì thầm như được phát ra đàng sau những nhánh mimosa, nhánh hạnh đào, dưới những chồng gối màu sắc rực rỡ, vang lên một cách mãnh liệt: Phải có nhiều tiền! Phải có nhiều tiền hơn! Ngay bây giờ! Ngay bây giờ!… Phải có thật nhiều tiền…  Phải có nhiều hơn nữa!

Tiếng thì thầm ma quái làm Paul hoảng sợ. Ngoài lúc tới nhà gia sư học tiếng Hy Lạp và tiếng La tin, Paul luôn ở bên Bassett. Cuộc đua Grand Nationnal đã qua, thằng bé "không biết" được con ngựa về nhất nên đã thua 1.000 bảng. Mùa hè sắp đến. Paul trong tâm trạng bồn chồn lo lắng cho cuộc đua Lincoln, nhưng rồi nó vẫn "không biết" và mất 50 bảng nữa. Cặp mắt Paul trở nên dại đi lạ lùng, như thể một điều gì đó sắp nổ tung trong người nó.

- Thôi bỏ qua đi con trai. Đừng bận tâm tới điều đó nữa.

Nhưng Paul như bỏ ngoài tai lời khuyên của ông chú.

- Cháu phải biết được con ngựa về nhất ở Lincoln. Cháu phải biết mà!

Người mẹ nhận ra nỗi lo lắng của con trai.

- Mẹ thấy con nên đi biển nghỉ ngơi cho khuây khỏa thay vì đợi chờ như vậy. Chị nhìn con trai lo ngại.

Thằng bé ngước nhìn mẹ với cặp mắt xanh kỳ lạ.

- Con không thể đi trước cuộc đua Derby, mẹ à.

- Sao lại không? Người mẹ phản đối. Con có thể đi biển nghỉ rồi xem đua ngựa với chú Oscar nếu con thích, không cần phải ở nhà đợi. Mà mẹ thấy con quan tâm quá nhiều tới mấy cuộc đua ngựa rồi đó. Như vậy không tốt đâu. Nhà mình từng dính dấp tới cờ bạc, và tác hại của nó thật không lường. Mẹ sẽ đuổi  Bassett  và yêu cầu chú Oscar không nói chuyện đua ngựa với con nữa, trừ phi con hứa là sẽ đi nghỉ ở biển và quên chuyện mấy con ngựa đi.

- Con sẽ nghe lời mẹ miễn là mẹ không đuổi con đi khỏi nhà cho tới sau cuộc đua Derby.

- Đuổi con ra khỏi nhà à?

- Vâng, thưa mẹ.

- Con thật lạ lùng. Mẹ không nghĩ con yêu nhà mình đến vậy.

Paul nhìn mẹ chăm chú nhưng không nói gì. Có một điều tối mật mà nó không hề tiết lộ ngay cả với Bassett và chú Oscar.

Người mẹ sau lúc phân vân cau có nói.

- Thôi được, con sẽ ở nhà cho tới sau cuộc đua, nhưng phải hứa với mẹ là không để thần kinh suy sụp, không nghĩ ngợi nhiều về mấy con ngựa đua.

- Ồ, không, con sẽ không nghĩ tới nữa. Mà mẹ cũng đừng lo lắng quá vậy.

Điều tối mật của Paul là con ngựa gỗ, con ngựa không có tên. Từ khi Paul dọn khỏi phòng trẻ và thoát khỏi sự trông nom của cô bảo mẫu, nó đã yêu cầu dời con ngựa gỗ lên phòng riêng của nó ở tầng trên.

- Nầy, con lớn rồi mà còn  cưỡi  ngựa gỗ hoài sao. Người mẹ phản đối.

- Con biết mà mẹ. Nhưng đợi tới khi con có một con ngựa thật, con thích giữ nó bên con như một người bạn. Nó đáp một cách lạ lùng.

- Con nghĩ nó là bạn của con hả? Người mẹ cười lớn.

- Ồ, vâng, nó luôn là  bạn tốt của con.

Con ngựa gỗ tồi tàn trong tư thế chồm lên bất động được đặt trong phòng ngủ của Paul.

Cuộc đua Derby gần đến, Paul càng căng thẳng. Nó cố lắng nghe một cách khổ sở điều được mách bảo. Trông nó suy sụp và đôi mắt trở nên vô vọng lạ lùng.  Mẹ nó thình lình có những linh cảm bất thường về nó. Thỉnh thoảng, nỗi lo về thằng bé lại dậy lên, khiến chị chỉ muốn tới bên nó để xem nó có an toàn hay không.

Hai hôm trước cuộc đua Derby, chị đi dự buổi tiệc lớn trong thị trấn. Tự dưng nỗi lo về con trai dâng lên co thắt tim chị. Chị cố gạt đi, nhưng nỗi lo càng lúc càng dâng lên, buộc chị phải ngừng khiêu vũ xuống cầu thang gọi điện về nhà. Cô giữ trẻ ngạc nhiên và giật mình khi nghe tiếng chuông điện thoại vang trong đêm.

- Bọn trẻ ổn cả chứ, cô Wilmot?

- Ồ, vâng, thưa bà.

-  Còn cậu Paul thì sao?

- Cậu đi ngủ rất sớm. Để tôi chạy lên phòng cậu xem.

- Thôi, khỏi. Đừng quấy rầy, để nó ngủ. Không nên thức khuya quá. Chúng tôi sẽ về sớm.

- Vâng, thưa bà!

Khoảng 1 giờ đêm, họ lái xe về nhà. Tất cả đều im lìm. Mẹ Paul đi lên phòng cởi áo choàng lông vì đã bảo với người hầu không phải thức đợi. Chị nghe tiếng chân chồng xuống cầu thang pha whisky - soda.

Đột nhiên, nỗi lo sợ kỳ lạ nhói lên trong lòng, chị len lén xuống cầu thang tới phòng con trai. Chị đi nhẹ nhàng dọc hành lang, mơ hồ nghe như có tiếng động gì đó.

Chị đứng tê cóng trước phòng thằng bé, lắng nghe. Một âm thanh không lớn, nhưng nặng nề kỳ lạ phát ra từ trong phòng. Trái tim chị như ngừng đập. Âm thanh  phát ra nhỏ nhưng dồn dập, mạnh mẽ. Một sự chuyển động liên tục và dữ dội. Tiếng động quái quỉ gì vậy? Chị cần phải biết nó là gì!

Lạnh buốt vì hoảng sợ và lo lắng, chị xoay nhẹ nắm cửa.

Căn phòng tối thui. Tuy nhiên chỗ gần cửa sổ, người mẹ nghe và thấy một cái gì đó nhúng nhẩy qua lại. Chị sững sờ nhìn, kinh ngạc và hoảng sợ.

Đột ngột, chị bật đèn lên và thấy con trai mình trong bộ
pyjama xanh đang lao điên cuồng trên con ngựa gỗ. Ánh chói của ngọn đèn đột ngột tỏa sáng vào thằng bé khi nó đang thúc con ngựa gỗ, tỏa sáng vào chị với mái tóc hoe vàng, trong bộ váy màu xanh nhạt, trong suốt trên lối đi.

- Con đang làm gì vậy? Paul! Chị thét lên.

- Đó là Malabar! Thằng bé la lên, giọng mạnh mẽ lạ lùng. Đó là Malabar! Đôi mắt nó rực sáng nhìn mẹ nó một cách lạ lẫm khi nó ngừng thúc con ngựa gỗ. Rồi nó té bổ xuống sàn nhà. Tình mẫu tử đột ngột trỗi dậy thắt lòng người mẹ khi chị xô tới đỡ thằng bé dậy.

Thằng bé hôn mê vì chứng viêm não. Nó bắt đầu mê sảng lăn lộn, và người mẹ ngồi như hóa đá bên cạnh.

- Malabar! Đó là Malabar! Bassett, Bassett, tôi biết nó. Nó là Malabar!

Thằng bé cứ la lên như vậy, như đang cố thúc con ngựa đã mang tới cho nó thông điệp.

- Malabar là gì vậy? Người mẹ hỏi, trái tim như đóng băng.

- Tôi không biết. Người cha đáp lạnh lùng.

- Nó nói Malabar là gì vậy? Người mẹ hỏi chú Oscar.

- Đó là tên một trong những con ngựa trong cuộc đua Derby. Oscar giải thích.

Bất chấp bệnh tình thằng bé, Oscar đi gặp Bassett, bản thân ông đặt 1.000 bảng cho Malabar, một ăn mười bốn.

Đến ngày thứ ba, bệnh tình Paul càng trầm trọng. Nó không một lần tỉnh dậy. Họ túc trực bên nó, mong chờ một phép lạ. Thằng bé với mái tóc xoăn, khá dài, vật vã không ngừng trên gối, cặp mắt nó giống như hai viên đá màu xanh. Người mẹ ngồi cạnh, trái tim tan nát.

Buổi tối, Oscar Cresswell không tới, nhưng Bassett nhắn tin xin ghé thăm một chốc. Thoạt đầu, mẹ Paul rất giận dữ, nhưng rồi chị đồng ý. Thằng bé vẫn hôn mê, có khi Bassett sẽ làm nó tỉnh dậy?

Người làm vườn, anh chàng thấp bé với hàng ria mỏng màu nâu, cặp mắt nâu nhỏ sắc sảo, rón rén đi vào phòng, chào mẹ Paul, cặp mắt ti hí nhìn chằm chằm vào cậu bé đang vật vã.

- Cậu Paul! Cậu Paul. Malabar về nhất. Thật tuyệt. Tôi đã đặt như cậu dặn. Cậu đã kiếm được trên 70.000. Bây giờ cậu đã có trên 80.000 bảng. Malabar về nhất, cậu Paul à!

- Malabar! Malabar! Phải con đã nói Malabar không mẹ? Con đã nói tên Malabar, phải không? Mẹ thấy con may mắn chứ? Con biết Malabar về nhất mà. Có trên 80.000 bảng là may mắn phải không? Trên 80.000, con may mắn quá rồi. Malabar về nhất, con biết CHẮC mà. Nếu em cưỡi con ngựa của em cho tới khi biết chắc, rồi nói với anh, thì anh có thể yên tâm đặt thật cao. Bassett, lần nầy anh ăn bao nhiêu?

- Tôi đặt 1.000, ăn 14.000, cậu Paul à.

- Mẹ à, con chưa nói với mẹ nếu con cưỡi con ngựa của con đi đến đấy, con sẽ biết chắc,  chắc lắm. Con cũng chưa nói rằng con may mắn phải không?

- Không. Con chưa hề nói với mẹ.

Thằng bé chết ngay trong đêm.

Khi ngồi bên thi thể đứa con, người mẹ nghe tiếng của em trai.

- Lạy Chúa, Hester, chị vừa có trên tám mươi ngàn bảng để vui mừng, vừa mất đi đứa con trai tội nghiệp của mình. Thằng bé thật đáng thương, tốt hơn là nó nên rời xa cuộc đời nầy, thoát khỏi cái thế giới mà nó phải cưỡi con ngựa gỗ để tìm ra con ngựa thắng cuộc.

Thu Trang
(Dịch từ nguyên bản tiếng Anh)
Văn nghệ Tiền Giang Xuân 2011