Nhân danh nghiên cứu để ca ngợi thứ "thơ" rác rưởi
- Thứ bảy - 13/07/2013 06:41
- |In ra
- |Đóng cửa sổ này
Cuối tháng 12-2011, Trung tâm văn hóa Pháp tại Hà Nội (L’Espace) ra thông cáo báo chí về việc tổ chức cuộc tọa đàm với chủ đề: "Những tiếng nói ngầm: thơ Việt Nam hậu đổi mới" - thảo luận về một xu hướng vận động trong thơ Việt Nam đương đại, trong đó khẳng định: "Buổi thảo luận là một nỗ lực đưa ra những kiến giải về xu hướng vận động của văn chương "ngầm" trong bối cảnh nghệ thuật phi chính thống Việt Nam, một xu hướng đã nổi lên và phát triển như một đối trọng văn hóa đáng kể với văn chương dòng chính trong sự thoái trào của làn sóng Ðổi mới và bối cảnh toàn cầu hóa, từ khoảng những năm 90 của thế kỷ trước đến nay... Nhã Thuyên sẽ trình bày một phần kết quả nghiên cứu trong dự án cá nhân Những tiếng nói ngầm trong thơ Việt Nam hậu đổi mới, trong đó nhấn mạnh vào sự cần thiết của việc hiểu bối cảnh hình thành, phát triển, sự tiếp nối/đứt đoạn của thơ Việt Nam đương đại với truyền thống, quá trình bên lề hóa như một nỗ lực khẳng định những tiếng nói khác trong văn chương, với sự đề cập sâu hơn ở các hiện tượng thơ như nhóm Mở miệng và các nhà thơ bên lề khác". Sau đó, dù cuộc tọa đàm không tiến hành thì theo Nhã Thuyên, tạp chí Tia sáng và Không gian sáng tạo Trung Nguyên đã cho chị "cơ hội để công bố một phần kết quả nghiên cứu của mình trong buổi thuyết trình thay thế Một góc thơ Việt Nam đương đại vào ngày 23-6-2012".
Từ sự kiện này, một câu hỏi đặt ra là: Công trình nghiên cứu của Nhã Thuyên có giá trị tới mức nào để L’Espace tổ chức tọa đàm? Câu hỏi này có lẽ chỉ người liên quan mới có thể trả lời. Còn đọc Những tiếng nói ngầm của Nhã Thuyên công bố trên một trang mạng của người Việt ở nước ngoài và so sánh với Luận văn thạc sĩ khoa học Ngữ văn (bản hiện lưu tại Thư viện Ðại học Sư phạm Hà Nội có số V-LA1/4784 - Luận văn) của Ðỗ Thị Thoan - tức Nhã Thuyên, do PGS, TS Nguyễn Thị Bình hướng dẫn, bảo vệ năm 2010 tại Trường đại học Sư phạm Hà Nội, với đề tài Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở miệng từ góc nhìn văn hóa sẽ thấy mối khăng khít giữa hai văn bản, nếu không nói Những tiếng nói ngầm thoát thai, mở rộng từ Luận văn. Vì thế, một câu hỏi khác lại được đặt ra: Thơ của nhóm Mở miệng có giá trị như thế nào để Trường đại học Sư phạm Hà Nội thực hiện một luận văn thạc sĩ và bảo vệ thành công 10/10; và từ góc nhìn văn hóa, Ðỗ Thị Thoan cùng người hướng dẫn đã đánh giá ra sao về các sản phẩm của Mở miệng?
Giữa những năm 90 của thế kỷ trước, một vài trang mạng ở nước ngoài công bố sản phẩm của một số người viết ở trong nước tụ tập trong nhóm tự đặt tên là Mở miệng. Thời kỳ đầu, mấy người này chủ yếu lấy thơ của tác giả khác rồi sửa sang, thêm thắt để biến thành của mình. Như từ bài thơ Thời hoa đỏ của Thanh Tùng, Bùi Chát đã chế tác thành Thời hoa đỏ lè với các câu như: "Dưới màu hoa như lửa cháy khát khao nhậu - Anh nắm tay em bước dọc con đường vắng vẻ..." và có người gán cho công việc đó cái nhãn hiệu mỹ miều là "giễu nhại"! Dần dà, mấy người trong Mở miệng bắt đầu công bố các văn bản chứa đầy thứ ngôn từ tục tĩu mà dẫn lại ở đây sẽ là xúc phạm văn hóa, xúc phạm thơ ca, và chắc chắn cả những người ca ngợi cũng không thể đọc cho con cái họ nghe. Và rồi, Mở miệng không dừng lại ở sự tục tĩu, họ đã dùng "thơ" để công khai bày tỏ thái độ chống đối, phỉ báng một số giá trị cao quý của văn hóa dân tộc. Sự xuất hiện của thứ "thơ" bẩn thỉu này sớm bị phê phán, như đầu năm 2006 báo Công an TP Hồ Chí Minh đăng bài Nhóm "Mở miệng" với thứ rác rưởi được gọi là thơ của Trúc Linh. Về "thơ" của một số người, trong đó có nhóm Mở miệng, nhà thơ Triệu Lam Châu khẳng định: "Tâm hồn chân chính của mỗi bạn đọc yêu thơ cần phải tăng cường sự miễn dịch đối với những loại thơ như vậy hoặc tương tự như thế!". Có thể coi đánh giá của Hoàng Lan trên một website của người Việt ở nước ngoài là phù hợp sản phẩm đó: "Cảm giác chung khi tiếp cận những bài thơ trên là một cảm giác không thoải mái chút nào, không "thơ" chút nào. Người đọc bị cuốn vào một thế giới xô bồ, bực bội, bế tắc, đạp đổ và văng tục vào tất cả... đọc những bài thơ trên đây, người đọc bị choáng trong một thế giới mà ở đó ý thức văn hóa, ý thức về cái đẹp, ý thức về những quan hệ nghĩa tình gia đình, cộng đồng, dân tộc không còn nữa, mà nhường chỗ cho cái tôi cực đoan ít nhiều đã bị tha hóa... đọc những bài thơ ấy người đọc bình thường sẽ bỏ đi. Vì trong khi đối thoại với nhà thơ, họ luôn bị nhà thơ văng tục vào mặt (...), luôn phải hứng chịu những bực bội, những đập phá, những hành vi thiếu văn hóa của nhân vật trong thơ. Ðiều đáng thương là không biết nhà thơ bực bội vì cái gì, muốn văng tục vào cái gì, muốn đạp đổ vào cái gì"!
Song Ðỗ Thị Thoan và người hướng dẫn lại coi sản phẩm của Mở miệng: "hấp dẫn cộng đồng nghệ thuật và giới trí thức trong/ngoài nước, như biểu hiện của nỗ lực trên hai phương diện của nghệ sĩ: đổi mới nghệ thuật và đòi hỏi tự do ngôn luận" (Luận văn, tr.4). Trong Luận văn, sau khi phân tích rối rắm về "dòng chính" và "dòng ngầm" rốt cuộc, Nhã Thuyên cùng người hướng dẫn muốn hướng tới sự "thừa nhận chính thức" với sản phẩm của Mở miệng. Vì với họ: "Dưới áp lực chính trị, truyền thông dòng chính nhìn dòng văn chương này với con mắt kiêng dè, xa lánh, vì "không chính thống". Cơ quan an ninh văn hóa Việt Nam vẫn tìm cách kiểm soát và ngăn chặn sự phát triển này" (Luận văn, tr.4)! Như vậy, theo Ðỗ Thị Thoan và PGS, TS Nguyễn Thị Bình, sản phẩm của Mở miệng là "sự phát triển" của thơ Việt Nam? Chọn góc nhìn văn hóa để tiếp cận cũng tức là phải sử dụng các giá trị có tính văn hóa để định tính đối tượng, vì thế chẳng lẽ họ lại coi sự tục tĩu, tính phản văn hóa trong sản phẩm của Mở miệng là sự phát triển? Nếu thật sự hiểu biết về văn hóa và về tính văn hóa trong các sản phẩm do con người sáng tạo, họ sẽ tự thấy, không cần tới "áp lực chính trị", và càng không cần tới "cơ quan an ninh văn hóa", không có bất kỳ cơ quan truyền thông nào lại muốn đăng tải "thơ rác, thơ dơ" của Mở miệng. Công bố loại sản phẩm đó là tự đặt vào thế đối lập với quan niệm, thị hiếu lành mạnh của công chúng. Do đó, trong tiểu mục Những khoảng trống (Luận văn, tr.14) việc đặt ra câu hỏi: "nghiên cứu, phê bình liệu có thể tiếp cận như một sự chia sẻ và tương tác mạnh mẽ với các hiện tượng đương đại nếu bản thân nó mang đầy định kiến?" là cố tình đổ lỗi cho nghiên cứu và phê bình. Và dù không có định kiến, với sản phẩm của Mở miệng, người đọc - bằng các tiêu chí văn hóa của họ, vẫn có thể phê phán và tự thanh lọc khỏi bộ nhớ. Xét đến cùng, vay mượn quan niệm về "dòng chính", "dòng ngầm" trong cấu trúc văn hóa chỉ là phương cách tạo dựng ra một "giả lý thuyết" nhằm biện hộ cho mục đích mà Ðỗ Thị Thoan và người hướng dẫn muốn hướng tới. Cho nên, cũng chỉ là ngụy biện khi tác giả Luận văn viết: "Cách ứng xử với hiện tượng văn học dưới các góc nhìn và cách tiếp cận thuần văn học, chỉ tập trung vào văn bản sẽ trở nên thiếu chính xác khi văn chương hiện nay đang nỗ lực tham dự vào một bối cảnh rộng hơn, khi nó là biểu hiện của một cấu trúc xã hội - văn hóa đang biến động"!
Huy động tổng lực các đánh giá và ý kiến cổ vũ Mở miệng đã công bố trên internet, Ðỗ Thị Thoan cố gắng "trường quy hóa" trong bản Luận văn để được mặc nhiên thừa nhận, từ đó sẽ biến "ngoại vi" thành "trung tâm", biến "dòng ngầm" thành "dòng chính", biến "phi chính thống" thành "chính thống", biến "phản văn hóa" thành "văn hóa"? Ðặt ra câu hỏi này là có lý do, bởi Luận văn này dành hẳn trang 16 chỉ để cật vấn tại sao cái dòng "văn chương" mà chị gọi là "bên lề" ấy lại không được "giải mã đúng lúc, không được thừa nhận, chứ chưa nói đến sự thấu hiểu". Vậy Luận văn đã "giải mã, thấu hiểu" như thế nào? Trong khuôn khổ một bài báo, không thể đưa ra đầy đủ dẫn dụ, chỉ có thể kết luận Ðỗ Thị Thoan cố gắng chứng minh Mở miệng ra đời là một tất yếu, là "một nhóm văn hóa chứ không phải một phong trào là điều kiện địa - văn hóa". Bằng việc phân tích một cách rất tư biện về quan hệ trung tâm - ngoại vi, chính thống - phi chính thống, phụ lưu - chính lưu, đặc biệt là tương quan giữa văn chương với quyền lực chính trị, tác giả đã không chỉ hướng tới "giải trung tâm", "giải thiêng" để biện hộ cho Mở miệng, mà còn đưa ra một số giả vấn đề, mà việc phân biệt bắc - nam trong văn chương là một thí dụ. Và phải nói rằng với quan niệm: "Quan hệ lề/trung tâm trong lĩnh vực văn chương ở Việt Nam, cũng thường được cụ thể hóa ở một cặp đôi khác là cặp Hà Nội - Sài Gòn (không phải thành phố Hồ Chí Minh theo tên trên bản đồ địa lý, một cái tên mới, một cái tên muốn xóa sạch cả lịch sử và quá khứ của những yêu mến lẫn đau thương vào danh từ của người chiến thắng của một giai đoạn lịch sử)..." (Luận văn, tr.38), chị như người đứng ngoài đất nước này và lặp lại y xì giọng điệu của những người chống cộng.
Tại Hội nghị Lý luận phê bình văn học lần thứ III do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức mới đây, sau khi có nhà nghiên cứu lên tiếng phê phán Luận văn của Ðỗ Thị Thoan, một đại biểu đến từ Ðại học Sư phạm Hà Nội biện hộ đó là nghiên cứu cá nhân, là quyền của nhà nghiên cứu. Ðiều này không sai, nhưng thử hỏi: Nghiên cứu để biến "thơ rác, thơ dơ" thành giá trị văn hóa thì liệu có phù hợp với phẩm cách nhân văn của nhà nghiên cứu hay không? Tại sao các nhà nghiên cứu ở trường này không tự mình tiến hành mà lại đặt nó "lên vai" học trò, lẽ nào đó là thủ pháp "mượn tay học trò" để không phải chịu trách nhiệm? Việc đào tạo, đăng ký và thông qua đề cương, phân công người hướng dẫn, bảo vệ, và đánh giá luận văn cao học là một quy trình nghiêm ngặt. Học viên không thể tự đi đến đích cuối cùng nếu không nhận được sự nhất trí của cả quy trình. Vì thế, vấn đề đặt ra là: Với những nội dung như vậy tại sao Luận văn của học viên Ðỗ Thị Thoan lại có thể được nhất trí 10/10, phải chăng các cá nhân liên quan tới Luận văn đều không e dè với các ngôn từ tục tĩu mà Ðỗ Thị Thoan dẫn lại trong Luận văn? Chẳng lẽ họ không thấy Luận văn rất thiếu tính khoa học, mà gần như là tập hợp của một số bài báo? Chẳng lẽ họ cũng coi Mở miệng là một "huyền thoại" khi đồng tình với điều tác giả Luận văn viết: "Cùng với sự nổi tiếng của Mở miệng, Nxb Giấy vụn đã trở thành một huyền thoại: Nxb ngoài luồng, huyền thoại về La Hán Phòng nơi hội tụ các anh em giang hồ, huyền thoại về sự thăm dò của an ninh, huyền thoại của những kẻ sẵn sàng "đái vào Chúa"... Những huyền thoại xây dựng hình ảnh Mở miệng: lạ, phá phách, phá hỏng tiếng Việt, phản kháng về chính trị, chống đối chính quyền. Họ là kết hợp của cách tân và phản kháng" (Luận văn, tr.57)!? Tóm lại, dẫu thế nào cũng không thể nhân danh khoa học để biện hộ cho việc làm ra các sản phẩm "phản văn hóa". Và đáng quan ngại là căn cứ vào chương trình giảng dạy bộ môn văn học Việt Nam ở Trường đại học Sư phạm Hà Nội, liệu ai có thể bảo đảm rằng, "kết quả nghiên cứu" của Ths Ðỗ Thị Thoan và PGS, TS Nguyễn Thị Bình về Mở miệng đã không được truyền bá trên giảng đường, chí ít là cho sinh viên ngành văn học?