Nhà thơ Xuân Quỳnh: Cả trong mơ còn thức...

Trước Cách mạng Tháng Tám, nhắc tới những đại diện tiêu biểu ở mảng thơ tình, thường người ta vẫn kể tên hai thi nhân Xuân Diệu và Nguyễn Bính. Sau này, bên cạnh tên tuổi Xuân Diệu, người ta nhắc tới Xuân Quỳnh. Vẫn biết, ngoài hai tác giả nói trên, ở ta còn không ít người làm thơ tình hay, song về cơ bản, ai nấy đều thừa nhận Xuân Diệu và Xuân Quỳnh là hai tiếng thơ có sức chinh phục đông đảo bạn đọc. Cả Xuân Diệu, Xuân Quỳnh đều giống nhau ở giọng thơ nồng nàn, da diết và đều có chung tâm trạng lo lắng, cuống quít như thể tình yêu chỉ là một thứ bong bóng mong manh dễ vỡ.
Nhà thơ Xuân Quỳnh (1942-1988).

Năm 1962, Xuân Diệu có bài "Biển". Một năm sau, Xuân Quỳnh cũng lại có "Thuyền và biển". Đó là hai bài thơ tình thuộc loại nổi tiếng nhất của hai người. Chúng có cấu tứ tương đối giống nhau. Trong bài thơ của mình, Xuân Diệu ví người con trai như biển, người con gái là bờ, còn Xuân Quỳnh thì ngược lại: "Những đêm trăng hiền từ/ Biển như cô gái nhỏ/ Thầm thì gửi tâm tư/ Quanh mạn thuyền sóng vỗ". Bài thơ của Xuân Diệu có chỗ gào thét, trào dâng nhục cảm: "Cũng có khi ào ạt/ Như nghiến nát bờ em/ Là lúc triều yêu mến/ Ngập bến của ngày đêm". Xuân Quỳnh cũng đề cập tới chuyện này, nhưng là phụ nữ, chị kín đáo hơn: "Cũng có khi vô cớ/ Biển ào ạt xô thuyền/ (Vì tình yêu muôn thuở/ Có bao giờ đứng yên)".

Thật khó so sánh cái hơn, cái kém giữa hai bài thơ. Xuân Diệu kết thúc bài "Biển" bằng một hình ảnh có sức bung phá, rất tạo ấn tượng: "Để những khi bọt tung trắng xóa/ Và gió về bay tỏa nơi nơi/ Như hôn mãi ngàn năm không thỏa", kèm đó là một tiếng kêu thống thiết: "Bởi yêu bờ lắm lắm, em ơi". Xuân Quỳnh không biểu lộ tình cảm bộc trực như vậy. Chị không dùng chữ "yêu" nhưng các hình ảnh nhắc tới ở phần kết bài vẫn đủ giúp chị gửi đi thông điệp tình yêu của mình: "Những ngày không gặp nhau/ Biển bạc đầu thương nhớ/ Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau rạn vỡ/ Nếu từ giã thuyền rồi/ Biển chỉ còn sóng gió/ Nếu phải cách xa anh/ Em chỉ còn bão tố".

Cái hay ở đây là Xuân Quỳnh có cách liên tưởng vừa giàu biểu cảm vừa đảm bảo yếu tố khoa học. "Những ngày không gặp nhau/ Lòng thuyền đau rạn vỡ". Những ai theo nghề đi biển hẳn sẽ thấm thía cái hiện thực này: Khi thuyền phải bỏ lại trên bờ, không được "ăn muối", ngâm nước, lại phơi mình trước nắng gió, nó rất dễ bị nứt nẻ. "Nếu từ giã thuyền rồi/ Biển chỉ còn sóng gió". Đúng vậy, người đi thuyền chỉ ngừng hành trình của mình trong những ngày biển động. Còn nói "Nếu phải cách xa anh/ Em chỉ còn bão tố" thì cách nói ấy không chỉ đúng với qui luật tình cảm mà còn đúng với qui luật tự nhiên: Hầu hết mọi cơn bão đều bắt đầu được hình thành từ biển.

Sau "Thuyền và biển", như chưa thỏa với những gì mình muốn gửi gắm, Xuân Quỳnh viết tiếp bài "Sóng". Cùng thể thơ ngũ ngôn, bài này khá giống "Thuyền và biển" ở cả giọng điệu lẫn cấu tứ. Bài thơ hẳn sẽ có vị trí riêng trong sự nghiệp thơ của Xuân Quỳnh nếu nó không làm người đọc nhớ tới "Thuyền và biển" (có cảm tưởng như "Sóng" là một nhánh phụ của "Thuyền và biển"). Đã có lúc tôi chợt nghĩ: Giá như tác giả dồn hai bài làm một, biết đâu chị sẽ có một thi phẩm qui mô và đặc sắc hơn?

Vẫn như ở "Thuyền và biển", trong bài "Sóng", Xuân Quỳnh không nhận mình là bờ. "Làm sao được tan ra/ Thành trăm con sóng nhỏ/ Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ". Nghĩa là trong tình yêu, chị sẵn sàng ở thế chủ động. Đây là một nét đáng quý của người phụ nữ thời đại mới. Người phụ nữ đó dám "rủ" người mình yêu: "Anh có đi cùng em/ Đến những miền đất lạ…" (bài "Mùa hoa doi"), biết nhắc người mình thương: "Sao không cài khuy áo lại anh/ Trời lạnh đấy, hôm nay trời trở rét" (bài "Trời trở rét") và biết "dọa" người mình đang "kết": "Nếu đời anh đã xếp thành ngăn/ Em sẽ đảo tung lề thói cũ/ Điều đơn giản anh hiểu ra tất cả/ Rằng tình yêu không thể tách rời/ Khi ấy em là cơ thể anh rồi/ Nếu cắt đi anh sẽ ngàn lần đau đớn" (bài "Thơ viết cho mình và những người con gái khác"). Yêu thơ Xuân Quỳnh, trước nhất là chúng ta yêu một con người, một con người có tâm hồn đa cảm, giàu nghị lực và luôn cháy bỏng khát vọng yêu thương...

Một nhà văn phương Tây có nói đại ý: "Nếu một người nào đó không có cái gì là của riêng mình thì có nghĩa là họ không có một cái gì hết". Đọc thơ Xuân Quỳnh, ta thấy hầu như tác giả luôn viết cho một đối tượng cụ thể (chứ không phải cho "số đông" chung chung nào đó). Bởi có đối tượng cụ thể để mà giãi bày, để mà "trút bầu tâm sự" nên giọng thơ Xuân Quỳnh thường thủ thỉ tâm tình chứ không... lên gân. Nhà phê bình văn học Lưu Khánh Thơ nhận xét: "Đọc thơ Xuân Quỳnh, người ta không có cảm giác tác giả "cố ý" làm thơ". Nhiều người cũng có chung ý nghĩ như vậy.

Nếu như ngoài đời, Xuân Quỳnh thường hay dị ứng, giễu cợt sự "long trọng hóa" vấn đề thì trong việc làm thơ, chị cũng không mấy quan tâm tới những đề tài được xem là "lớn" nhưng xa lạ với thế giới nội tâm của mình. Thơ Xuân Quỳnh đi vào những đề tài hẹp nhưng có tính "muôn thuở". Số phận đưa đẩy Xuân Quỳnh có một đời sống riêng rất dích dắc. Người chồng sau của chị - nhà thơ, nhà viết kịch Lưu Quang Vũ - kém chị tới 6 tuổi, từng có một đời vợ và có con riêng. Vậy là có lúc, trong nhà Xuân Quỳnh đủ cả "con anh, con tôi và con chúng ta". Bằng trái tim nhân hậu, trĩu nặng yêu thương, Xuân Quỳnh đã bứt lên hoàn cảnh, giải quyết ổn thỏa mối quan hệ mẹ chồng nàng dâu, quan hệ mẹ kế con chồng, thậm chí còn đưa được những tình cảm ấy vào thơ (vốn dĩ, đây là những chủ đề "nhạy cảm", khó viết - ca dao xưa từng nói: "Mấy đời bánh đúc có xương/ Mấy đời mẹ ghẻ lại thương con chồng"). Các bài "Mẹ của anh", "Cắt nghĩa" đã xóa đi mặc cảm (và ác cảm) tự bao đời về các bà mẹ chồng, mẹ ghẻ trong trái tim bao người. Không những vậy, trong kho tàng thi ca Việt Nam, có thể xem "Mẹ của anh" là bài thơ hay hiếm hoi về chủ đề mẹ chồng - nàng dâu.

Là người dám sống hết mình cho tình yêu, Xuân Quỳnh đồng thời cũng là người rất biết vun vén cho hạnh phúc gia đình. Có điều gì đó hơi mâu thuẫn ở người đàn bà này? Thông minh mà thật thà, hồn nhiên và sâu sắc. Đúng là "trái tim có mắt", đọc thơ Xuân Quỳnh, bạn đọc luôn sửng sốt trước cách thể hiện tình cảm hết sức bất ngờ và giàu cảm xúc của chị:

Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

(bài "Sóng")

Chắt chiu từ những ngày xưa
Mẹ sinh anh để bây giờ cho em

(bài "Mẹ của anh")

Con thức ban ngày, mẹ che chở cho con
Khi con mơ mẹ làm sao che chở
Trong giấc mơ chỉ mình con bé nhỏ
Chỉ mình con chống chọi với quân thù

(bài "Dải đất thuộc về tôi").

Đó là những câu thơ không cần trang sức của ngôn từ. Nó được diễn đạt một cách trụi trần và đi thẳng tới trái tim người đọc. Nhà thơ Vũ Quần Phương từng nêu nhận xét: "Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng có tứ, chị dùng tứ để bộc lộ chủ đề". Theo tôi, cũng có khi cái tứ ấy được tác giả gói lại trong một bài thơ dài, nhưng cũng không hiếm khi chỉ vài ba câu thơ như trên đã đủ dệt thành một tứ thơ nho nhỏ. Thế mới có chuyện, đọc mấy câu sau đây của Xuân Quỳnh (trong bài "Em có đem gì theo đâu" viết về những ngày Hà Nội gồng mình chống lại bom đạn Mỹ): "Em có đem gì theo đâu/ Em để lại cho anh tất cả/ Thành phố tuổi thơ gạch vỉa hè đã cũ/ Thành phố tuổi thanh niên hầm hố mới đào/ Còi báo động len vào từng ngõ nhỏ/ Phút lặng im trên các nóc nhà cao/ Người thủ đô gặp nhau ít hỏi chào/ Nhưng ai đó cũng đều quen cả/ Với người này từng xếp hàng mua cá/ Với người kia cãi vã lúc đâm xe…", nhà văn Nguyễn Minh Châu đã phải chép miệng than tiếc rằng mình không biết làm thơ. Bởi chỉ một đoạn ngắn ấy thôi mà nói được những điều cả cuốn tiểu thuyết dày chưa chắc nói được.

Bìa tập "Xuân Quỳnh - tác phẩm và lời bình" do NXB Văn học ấn hành.

Đọc thơ Xuân Quỳnh, ai cũng thấy chị là người cả nghĩ. Và điều chị nghĩ nhiều nhất, xoáy sâu nhất vẫn là về lẽ sống, về tình yêu, hạnh phúc và ý nghĩa của đời người. Ngay từ trẻ chị đã vậy: "Trước muôn trùng sóng bể/ Em nghĩ về anh; em/ Em nghĩ về biển lớn/ Từ nơi nào sóng lên" (bài "Sóng"); mà đến khi có tuổi rồi, chị vẫn không thôi trăn trở: "Em đâu dám nghĩ là vĩnh viễn/ Hôm nay yêu mai có thể xa rồi/ Niềm đau đớn tưởng như vô tận/ Bỗng có ngày thay thế một niềm vui" (bài "Nói cùng anh"). Thơ cấu tạo từ những dòng suy nghĩ liên tục, ý nọ gối ý kia có ưu điểm là thành thực. Nó thể hiện được chính xác quan niệm, nhận thức của tác giả. Người đọc qua đó có thể chia sẻ với tác giả những điều mà cả hai cùng quan tâm. Tuy nhiên, loại thơ này có hạn chế là câu chữ thường thiếu sự hư ảo, giai điệu ít bay bổng, quyến rũ như ta thường thấy (bởi tác giả chỉ tập trung diễn đạt sao cho đủ ý, đúng ý rồi từ ý nâng lên lập tứ chứ ít chú ý tới sự lay gợi của những cảm xúc mơ hồ cùng sức “bay” của vần điệu).

Thơ Xuân Quỳnh, ngoại trừ một số bài sáng tác ở giai đoạn đầu (như các bài "Chồi biếc", "Thuyền và biển", "Sóng"), hoặc “Hoa cỏ may” ở giai đoạn sau là vừa có tứ hay vừa có mạch thơ thanh thoát, cuốn hút, còn thì đa phần mạch thơ rề rà, có chỗ bí rì rì và… hụt hơi. Đọc những câu "Mái tóc xanh bắt đầu pha sợi bạc/ Nỗi vui buồn cũng khác những ngày xưa/ Chi chút thời gian từng phút từng giờ/ Như kẻ khó tính từng hào keo kiệt/ Tôi biết chắc mùa xuân rồi sẽ hết/ Hôm nay non mai cỏ sẽ già/ Tôi đã đi mấy chặng đường xa/ Vượt mấy núi mấy rừng qua mấy biển/ Niềm mơ ước gửi vào trang viết/ Nỗi đau buồn dồn xuống đáy tâm tư" (bài "Có một thời như thế"), ta thấy cái cách viết nặng về kể lể rườm rà như thế này xuất hiện khá nhiều trong thơ Xuân Quỳnh, nó khiến bài thơ rơi vào tình cảnh không… nhạt nhưng mà… tẻ.

Suy cho cùng, cách làm thơ thiên về ý và nặng về nghĩ... không hẳn là lợi thế của một tác giả nữ ít có điều kiện học cao biết rộng như Xuân Quỳnh (có lẽ nó chỉ hợp với những tạng người như Chế Lan Viên, một nhà thơ thông minh, uyên bác, ưa suy luận và sự suy luận ấy luôn được hỗ trợ bởi một trí tưởng tượng siêu phàm). Vả chăng, dựng nên một bài thơ dày đặc các ý nghĩ là một việc làm "liều lĩnh", bởi để có được những ý nghĩ mới mẻ, độc đáo đâu phải dễ. La Bruyère - nhà thơ Pháp thế kỷ XVII chẳng đã phải thốt lên: "Tất cả đã được nói hết rồi, và chúng ta đến quá muộn. Từ 4000 năm nay đã có những con người, và họ suy nghĩ".

Ở trên tôi đã nhắc tới trường hợp Chế Lan Viên. Điều thú vị là - theo như "bật mí" của nhà phê bình văn học Vương Trí Nhàn (sách "Cây bút, đời người", NXB Trẻ, 2002) - mặc dù được xem là "người tiếp tục giọng thơ Xuân Diệu", song trong việc làm thơ, Xuân Quỳnh tìm tòi học hỏi nhiều ở Chế Lan Viên chứ không phải ở Xuân Diệu. Kể thì việc này cũng dễ hiểu. Thơ Chế Lan Viên mạnh về ý, về tứ. Nếu ai nghiên cứu kỹ quá trình Chế Lan Viên hoàn thiện "Di cảo thơ", hẳn sẽ nhận thấy cách thức của ông như sau: Khi trong đầu nảy ra những ý hay, ông tạm ghi ra giấy, rồi trên cái nền đó, ông xoay xỏa tìm cách dồn chúng vào một khuôn thơ nào đó, cốt sao vừa có vần có điệu vừa giữ được cơ bản ý thơ. Xuân Quỳnh cũng làm thơ theo qui trình này. Chị từng thổ lộ với Vương Trí Nhàn: "Lúc viết những dòng này, tôi như người phát cuồng. Cứ phải ghi bằng hết những ý nghĩ đang ào ào kéo đến trong đầu không cần vần vèo gì vội. Còn sắp xếp lại, đặt vần, tôi làm sau, việc ấy đơn giản hơn". 

Thơ trọng ý, trọng tứ là thứ thơ ít bị hư hao, "thất thoát" khi chuyển sang một ngôn ngữ khác. Trong quá khứ, thơ Xuân Quỳnh từng được dịch in ở Nga, Đức, Pháp…Thiết nghĩ, với những câu: "Con thức ban ngày, mẹ che chở cho con/ Khi con mơ mẹ làm sao che chở" thì dịch thế nào cũng vẫn gây được xúc động nơi người đọc. Thậm chí, với một bài được viết bằng thể thơ lục bát thấm đẫm hồn cốt dân tộc như "Mẹ của anh" thì những ý thơ hay như "Bây giờ tóc mẹ trắng phau/ Để cho mái tóc trên đầu anh đen", qua bản dịch vẫn đủ sức chinh phục người đọc. Đó là cái hay được gây dựng từ sự đối lập của hai mái tóc đen, trắng. Lẽ nào, độc giả Việt Nam từng yêu thích câu thơ của thi sĩ Pháp Louis Aragon "Đêm hết đen thì tóc bạc trên đầu" mà độc giả Pháp lại không yêu thích câu thơ nói trên của nữ thi sĩ Việt Nam Xuân Quỳnh?

Tác giả bài viết: Phạm Khải

Nguồn tin: VNCA