Đền thờ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân

Lễ giỗ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân

Lễ giỗ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân

Đền thờ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân có diện tích 3.500m2, tại ấp Hòa Quới, xã Hòa Tịnh, huyện Chợ Gạo (Tiền Giang) được xây dựng khá khang trang theo lối kiến trúc truyền thống, cách Ủy ban nhân dân xã 500m về phía Bắc và Quốc lộ 1A 3km về phía Đông.

Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân sinh năm Canh Dần (1830) tại làng Tịnh Hà, tổng Thanh Quơn, huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường (nay là xã Mỹ Tịnh An, huyện Chợ Gạo, Tiền Giang) trong một gia đình nông dân khá giả trong vùng. Thuở nhỏ, Nguyễn Hữu Huân nổi tiếng thông minh, học giỏi. Năm 1852, dưới triều vua Tự Đức, ông thi Hương tại Gia Định đậu thủ khoa được bổ làm Giáo thụ, tức Đốc học huyện Kiến Hưng, tỉnh Định Tường. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, ông bỏ chức Giáo thụ, từ biệt gia đình, liên kết với các sĩ phu yêu nước, chiêu mộ nghĩa binh đứng lên chống giặc.

Đầu năm 1862, giặc Pháp đánh úp. Ông bị bắt và giải về Sài Gòn. Đích thân tên việt gian Đỗ Hữu Phương (tức Tổng đốc Phương) dùng mọi thủ đoạn mua chuộc. Ông từ chối và khôn khéo tìm cách trở lại hoạt động, liên kết với nghĩa quân Trương Định khởi nghĩa. Tháng 6-1863, giặc phát hiện căn cứ hoạt động của ông tại Thuộc Nhiêu – Cai Lậy nên bao vây càn quét. Ông và Thiên Hộ Dương chạy thoát về căn cứ Bảy Núi. Dựa vào điều ước Nhâm Tuất (1862), Pháp gửi tối hậu thư buộc quan tỉnh An Giang nộp Thủ Khoa Huân và Thiên Hộ Dương. Thiên Hộ Dương trốn thoát về căn cứ Đồng Tháp Mười còn Thủ Khoa Huân bị bắt (lần hai), kết án 10 năm khổ sai và đày ông ra đảo RéUNI0N. Sau 7 năm tù, chúng đưa ông về quản thúc tại nhà Đỗ Hữu Phương, cử ông làm Giáo thụ, dạy bảo “sinh đồ” ở Chợ Lớn với hy vọng lôi kéo ông về phía chúng. Nhưng ông đã lợi dụng điều kiện dạy học để liên lạc với các sĩ phu yêu nước chuẩn bị khởi nghĩa. Năm 1875, trong một trận giao tranh với giặc, Đốc binh Hương bị Trần Bá Lộc mua chuộc dẫn quân về bắt Nguyễn Hữu Huân tại Chợ Gạo ngày 15-5-1875 đem giam tại Mỹ Tho (bị bắt lần 3). Ngày 19-5-1875, giặc đem ông về quê Mỹ Tịnh An hành quyết. Năm ấy ông được 45 tuổi.

Sau khi ông mất, để tỏ lòng tôn kính, nhân dân địa phương đã lập đền thờ cách nơi ông bị xử trảm 100m (ngay trường tiểu học Mỹ Tịnh An ngày nay). Năm 1995, được sự đồng ý của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang, đền thờ Thủ Khoa Huân dời về cạnh mộ ông. Từ đó khu vực này có tên gọi là “Đền thờ Thủ Khoa Huân”. Ngôi đền được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống. Giữa có bàn thờ, lư hương và bằng công nhận di tích văn hóa cấp quốc gia. Ngôi mộ, lúc đầu được đắp bằng đất, đến năm 1927, con cháu ông và nhân dân địa phương xây dựng lại bằng đá xanh gồm hai phần: nấm mộ và bia mộ. Theo các vị bô lão địa phương, mộ được xây theo kiểu “Voi phục” vì trông giống như con voi đang nằm áp bụng xuống đất. Nền mộ là những viên đá dày 30cm, rộng 40cm, dài 120cm ghép lại với nhau thành nền để đặt núm mộ với diện tích phần nền bằng đá 4,042m2. Núm mộ gồm 2 tảng đá xanh có hình dáng mô hai đầu cao 70cm, phần giữa lõm xuống cong như lưng voi, phía trước có hoa văn khắc ô chữ nhật xoáy vòng, phía sau hoa văn là những vòng gợn và uốn xoáy lại ở cuối đã được ghép bằng xi măng theo chiều dài. Bia mộ nối liền với núm mộ gồm 3 phần: chân bia, thân bia và mái bia. Chân bia là một khối đá hình chữ nhật có chạm hoa văn hình lá. Thân bia để viết chữ dày 40cm, cao 72cm rộng 100cm. Mái che bằng đá xanh cao 32cm, rộng 38cm. Mái che giả ngói chia làm 8 rãnh, cuối đầu mỗi rãnh có chạm hoa sen, hai đầu chạm 2 con dơi quay mặt ra ngoài tư thế đang bay trông rất sinh động. Ngôi mộ tuy không nguy nga, lộng lẫy nhưng đã nói lên được sự tôn kính của nhân dân địa phương với vị anh hùng dân tộc. Tại đây, các ngành chức năng đã thành lập Ban bảo vệ đền thờ, hàng ngày có người trông nom, chăm sóc khu di tích và đón tiếp khách tham quan. Tưởng nhớ đến ông, Ủy ban nhân dân tỉnh Tiền Giang đã cho xây dựng một tượng đài lớn trong công viên cạnh sông Tiền, ngay trung tâm thành phố Mỹ Tho. Và công viên này cũng đã chính thức mang tên ông.

Đền thờ và mộ Thủ khoa Nguyễn Hữu Huân có giá trị lịch sử văn hóa. Mười lăm năm chống giặc, ba lần khởi nghĩa, ba lần bị bắt, bị đày tận đảo RéUNI0N nhưng ông không nao núng tinh thần cho đến phút cuối cùng. Đó chính là niềm tự hào dân tộc nói chung, của nhân dân Tiền Giang nói riêng.

Tác giả bài viết: Lê Quang nHuy

Nguồn tin: Báo Cần Thơ