Người xóm Rạch Trắc

Minh họa: Duy Hải

Minh họa: Duy Hải

Xóm ấy cùng tên với con rạch dài hơn 3 ngàn thước, nối vào kinh Xáng Ngang, kinh Lacour và kinh Kháng Chiến, vàm rạch đổ ra kinh 12, nằm trọn trong xã Mỹ Phước Tây. Cái tên Rạch Trắc không biết có tự bao giờ, song trước năm 1945, địa danh hành chánh ấp Rạch Trắc đã có và hơn nửa thế kỷ qua chưa hề thay tên đổi họ.

Ấp Rạch Trắc bây giờ là trung tâm xã bởi khu vực hành chính xã đóng trên địa bàn. Cách đây mươi năm, xóm này nổi tiếng với những chiếc cầu khỉ bắc qua các con kinh nhỏ, bây giờ thay thế toàn bộ bằng bê tông. Các con đường vô xóm cũng được lót bê tông, vài khúc quanh uốn lượn, mềm mại như những đường cong trên cơ thể thiếu nữ tuổi dậy thì.

*

Ngược dòng lịch sử, cái xóm nhỏ có cái tên khó truy nguồn gốc này xưa thuộc làng Mỹ Hạnh Tây, còn tại sao gọi là Rạch Trắc thì đành chịu, bởi lẽ vùng Đồng Tháp Mười nước trũng phèn chua quanh năm là vì có cây trắc, có lẽ là trấp, lâu ngày bị nói trại đi chăng? Thảm thực vật đặc trưng còn sót lại với nhiều chủng loại: cà na, tràm, bình bát, chòi mòi và cây mua tím. Đó đây trong xóm còn vài liếp sậy mọc hoang. Nước lũ chưa về mà sậy đã ra bông, nhớ câu ca dao “gió đưa bông sậy”, hoài niệm thuở hoang vu.

Theo thư tịch, thôn Mỹ Hạnh Tây, vào năm 1808 thuộc tổng Kiến Lợi, đến năm 1836 lại thuộc tổng  Lợi Trinh. Ngày 13-12-1913, thôn Mỹ Hạnh Tây nhập với thôn Long Phước thành Mỹ Phước Tây, thuộc tổng  Lợi Trinh, quận Cai Lậy. Thôn Long Phước nguyên thủy là thôn đồn điền, một dạng nông trường khai hoang, có tính chất bán quân sự thời nhà Nguyễn do Cai đội Phạm Văn Huy lập. Ngày 29 tháng 10 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842) thành lập tổng Lợi Thạnh ở phía bắc gồm các thôn Giai Thạnh, Phú Lợi, Giai Thành, Phú Đa, Long Phước. Địa bạ Minh Mạng ghi “Long Phước có diện tích khai thác 300 mẫu toàn công điền, bổn thôn đồng canh”.  Khi Pháp chiếm Định Tường, toàn bộ dân đồn điền tham gia kháng chiến, các thôn tan rã, chỉ còn duy nhất một thôn Long Phước nhập vào  làng Mỹ Hạnh Tây. Các thôn đồn điền mới lập, chưa xây dựng đầy đủ các thiết chế văn hóa, cho nên vùng này duy nhất chỉ có ngôi đình làng Mỹ Hạnh Tây được sắc phong. Đình nằm trên xóm Rạch Trắc, dân gian quen gọi là đình _
Rạch Trắc.

Hồi năm khoảng 1915, rạch Trắc rất cong queo. Năm 1910, chùa Khánh Long khai sơn. Đất lở đe dọa cả đình Rạch Trắc. Có người chỉ vẽ phải dựng tấm bia “Thái sơn thạch cẩm đương” để ngăn “bà Thủy”. Các sư trụ trì bèn nhờ một người Hoa tìm tấm đá khắc bia. Nhận tiền cọc xong, không biết có ai mách bảo làm tấm bia đó thì sẽ bị “bà Thủy” bắt. Ông ta hoảng hốt trả lại tiền, từ chối việc khắc bia.

Bấy giờ trong xóm có một vị kinh sư tên Trọng nhận lời khắc tấm bia ấy. Ông mua một miếng đá dùng để làm bia mộ viết 5 chữ “Thái sơn thạch cẩm đương” lên đó rồi chạm khắc. Tấm bia được dựng trước mé sông, trước khúc vịnh thường xuyên bị lở. Vài năm sau, người Pháp cải tạo rạch Ba Rài và đào kinh Lacour, rạch Trắc cũng được nắn lại, dòng chảy thay đổi. Chỗ bị lở triền miên trước kia nay trở thành khúc sông bồi. Thiên hạ bắt đầu tin sự linh nghiệm của tấm bia trấn thủy. Về phần thầy Trọng, ít lâu sau, có người mời ông lên Cái Bè làm đám tuần thất. Xuồng ông bơi đến đoạn sông Hòa Khánh, gần miễu Cậu thì bị gió thổi bay cái kho. Vì tiếc của, ông nhào ra vớt chiếc kho lên, xuồng lật, hai người chết chìm. Riêng ông thì trôi mất xác. Cái chết của thầy Trọng khiến cho lời đồn về sự linh nghiệm của “bà Thủy” càng thêm giá trị.

*

Thời kỳ tiền kháng chiến xóm Rạch Trắc đã nổi danh với những ông già chịu chơi. Cách đây mấy mươi năm, hồi đi sưu tập những mẩu chuyện “Lòng dân Cai Lậy với Bác Hồ”, tôi có nghe lỏm câu chuyện chửi xéo ngài Chủ quận Nguyễn Văn Tâm - còn mệnh danh là “cọp xám Nam kỳ”.

Đương thời, quận Tâm rất ngán dân xóm Rạch Trắc, những nông dân từng gióng mõ cầm cờ, gây tiếng vang trong cuộc Nam kỳ khởi nghĩa. Bấy giờ rạch Trắc lục bình sinh sôi đầy cứng. Mỗi lần quận Tâm chạy ca nô vô thị sát phải thông báo trước cho đám tay chân dọn dẹp. Hội tề đánh mõ tập trung dân làng lại, bắt vác bồ cào kéo lục bình, dọn đường cho tàu quan lớn. Trong số dân dọn có một ông già đứng ra thị thiềng. Ông hét người làm:

- “Bổ đại bồ cào lên đầu nó rồi kéo lên bờ. Để nó trôi ra trôi vô hoài báo làng, báo dân”.

Gã Hương quản trợn trừng con mắt, biết ông già chửi xéo quận Tâm, nhưng không biết làm sao được.

Truyền thống đó, mươi năm sau còn nối tiếp bởi một ông già Rạch Trắc khác: Ông Mẫn. Tết năm Ất Mão (1955), chính quyền họ Ngô hô hào ăn Tết hòa bình, bày trò treo khẩu hiệu, dán áp phích, làm cổng chào... Tại cửa tam quan đường liên tỉnh Cai Lậy - Mộc Hóa, họ treo một câu liễn:

Ưng lính cụ Ngô vàng đeo đầy cổ

Ưng lính ông Hồ cực khổ muôn đời

Bà con đi chợ Tết thấy lạ xúm lại xem. Tên lính gác cổng vênh váo bảo mọi người:

- Cô bác nào đối được hai câu liễn này sẽ được thưởng.

Ông Mẫn thiệt tình:

- Tui dốt chữ, chú đọc tui nghe rồi tui đáp, nhưng giao trước nói trật thì không được bắt nghen!

Tên lính tỏ ra là người thông thái, giải thích rằng chính phủ Việt Nam cộng hòa cho tự do ngôn luận, tự do nói, nếu ông đáp hay thì có thưởng, trật cũng không sao. Ông Mẫn cười, đáp ngay:

Ưng lính ông Ngô vàng đeo có lúc

Ưng lính Cụ Hồ hạnh phúc muôn năm

Nói xong ông quày quả bỏ đi trong tiếng vỗ tay của bà con đi chợ. Tên lính vội vã chạy theo nắm tay ông trì kéo. Ông trừng mắt bảo “Hồi nãy chú nói có đáp trật cũng không bắt mà”. Tên lính cả thẹn “Đâu có, tui tính hỏi quê quán ông ở đâu để mà sau này có đối đáp tui mời ông tới”. Ông trả lời cụt ngủn “Xóm Rạch Trắc”, rồi thẳng bước, mặc cho tên lính nhìn theo hậm hực.

*

Trở lại chuyện bùa trấn thủy và đình Rạch Trắc. Tấm bia “Thái sơn thạch cẩm đương” đứng vững mãi đến sau năm 1975, rồi sau đó các công trình thủy lợi để xả phèn phía sông Cũ - Ba Rài làm dòng chảy mạnh hơn, nước xoáy, đất lở, bia sụp đổ, rớt xuống lòng rạch. Niềm tin về sự linh nghiệm của bùa trấn thủy lung lay rồi đi vào dĩ vãng. Số phận ngôi đình làng cũng chẳng hay ho gì. Giai đoạn đầu chín năm kháng chiến, đình phải dỡ bỏ để tiêu thổ kháng chiến, không cho giặc đóng bót. Riêng nền đình cũ, sau năm 1976, được trưng dụng làm xí nghiệp gỗ. Người dân đem đạo sắc thần Thành hoàng về nhà cất giữ. Đồ tự khí giữ được từ hồi tiêu thổ kháng chiến dần dần bị thất lạc, duy chỉ có tấm bảng gỗ viết chữ Thần còn giữ nhưng cũng mối mọt gặm nhấm. Người dân địa phương vẫn theo tập quán tín ngưỡng tổ chức cúng bái hàng năm tại ngôi chùa. Tuy nhiên tổ chức khi cúng đình phải cúng mặn nên nảy sinh nhiều điều bất cập.

Mươi năm sau, lỗ lã triền miên, xưởng cưa bị giải tán còn trơ lại nền đất đìu hiu. Một ông già xóm Rạch Trắc khác thấy mủi lòng bèn đệ đơn lên tới tỉnh xin cất lại ngôi đình. Đã mấy mùa sậy ra bông, mà chuyện cất đình vẫn chưa được chấp thuận. Dân Rạch Trắc nghe theo ông lặng lẽ gom góp tiền xây cất, đem sắc Thần về thờ cúng. Chính quyền địa phương mặc nhận, bởi lẽ dù gì ông cũng là cách mạng tiền bối, bậc “khai quốc công thần”, đã từng ra tay đốt đình để tiêu thổ kháng chiến.

Tấm bia “Thái sơn thạch cẩm đương” được Ban khánh tiết đình vớt lên, dù chẳng còn linh nghiệm. Nó đã đi qua một vòng quay lịch sử, lặp đi lặp lại như con nước lớn ròng hai lượt.

Tác giả bài viết: Nguyễn Ngọc Phan

Nguồn tin: Văn nghệ Tiền Giang số 42